Chương 16. Chỉ việc biết còn lại

Chương 16. Chỉ việc biết còn lại

Price:

Read more

Osho - Nhịp đập của tuyệt đối
Chương 16. Chỉ việc biết còn lại

Khuôn mặt của Brahman đó, ngồi ở giữa sự tràn trề ánh sáng, bị che phủ bởi tấm màn vàng.
Xin Thượng đế cởi bỏ tấm màn đó ra để cho con, người tìm kiếm chân lí, có thể đạt tới điều tối cao.
Lời kinh này hơi khó hiểu, nhưng nó có ý nghĩa phi thường bởi nhiều lí do. Trước hết, chúng ta nói chung vẫn tin rằng nếu chân lí bị che phủ, nó phải bị che phủ bởi bóng tối, nhưng lời kinh này nói nó bị che phủ bởi ánh sáng; do đó có lời cầu nguyện rằng Thượng đế sẽ cởi bỏ tấm màn ánh sáng.
Đây là kinh nghiệm của người đã tiến hành tìm kiếm sâu sắc về chân lí. Những người chỉ suy nghĩ bao giờ cũng sẽ nói rằng chân lí bị bao phủ trong bóng tối, nhưng những người đã biết qua kinh nghiệm sâu sắc sẽ nói nó bị che phủ trong ánh sáng; và nếu nó trông có vẻ tối, đấy là vì cái chói của ánh sáng này. Chúng ta bị loá mắt khi ánh sáng quá mạnh; thế thì ánh sáng trông như bóng tối bởi vì nhược điểm của mắt chúng ta, chúng không thể chịu đựng được quá nhiều ánh sáng.
Nhìn vào mặt trời với mắt mở to, và trong một vài giây bạn sẽ trong bóng tối. Mặt trời chói lọi đến mức mắt không thể chịu đựng nổi nó. Cho nên những người đã biết từ một khoảng cách và không trực tiếp - người chỉ nghĩ về nó - sẽ nói rằng ngôi đền của Thượng đế bị giấu trong bóng tối. Nhưng những người đã biết đến kinh nghiệm về nó sẽ nói nó bị giấu trong ánh sáng, và họ sẽ cầu nguyện Thượng đế bỏ tấm màn đó. Ảo tưởng được tạo ra bởi vì mắt chúng ta quá yếu không trụ nổi trước dư thừa ánh sáng. Con người chúng ta không thích hợp để đón nhận nó.
Khi người ta tiến tới chân lí, ánh sáng bắt đầu tăng lên, trở nên ngày càng chói lọi hơn. Những người đang đi xa thêm vào trong thiền dần dần đi tới biết việc toả sáng tăng lên khi việc thiền của họ trở nên ngày càng sâu hơn. Một sannyasin người Italia tên là Veet Sandeh hôm nay bảo tôi rằng có quá nhiều ánh sáng bên trong cô ấy đến mức cô ấy kinh nghiệm các tia sáng loé ra từ cô ấy, và toàn bộ thân thể cô ấy bùng cháy cứ như mặt trời đang chiếu sáng bên trong cô ấy. Sức nóng không đến từ bên ngoài mà từ bên trong, và ánh sáng đó chói lọi đến mức cô ấy khó ngủ được trong đêm. “Khi tôi lơ mơ,” cô ấy nói, “toàn ánh sáng là ánh sáng khắp xung quanh.”
Khi người ta đi ngày càng sâu hơn vào thiền, ánh sáng này trở nên càng mạnh, tập trung và xuyên thấu, và một khoảnh khắc sẽ tới khi cường độ ánh sáng lớn đến mức người đó kinh nghiệm bóng tối sâu sắc. Chỉ các vị thánh Ki tô giáo đặt tên đúng cho khoảnh khắc này. Họ gọi nó là, “Đêm tối của linh hồn.” Nhưng đêm tối như hắc ín này là do ánh sáng quá mức, sự tràn trề ánh sáng. Chính trong khoảnh khắc này mà con người cầu nguyện Thượng đế bỏ đi tấm màn ánh sáng, “Để cho con có thể thấy khuôn mặt của chân lí ẩn đằng sau nó.”
Điều duy nhất được trông đợi là sẽ có quá nhiều ánh sáng bao quanh chân lí đến mức nó làm mù mắt chúng ta. Điều khớp và tốt là chân lí được che giấu bên trong vòng tròn ánh sáng đó. Chỉ ảo tưởng của chúng ta là chân lí bị che giấu trong bóng tối. Làm sao có thể có bóng tối bao quanh chân lí được? Nếu bóng tối bao quanh chân lí, thế thì chúng ta sẽ tìm ra ánh sáng ở đâu trong thế giới này? Làm sao bóng tối có thể bao quanh chân lí được? Không có khả năng nào, không cách nào, để bóng tối tồn tại gần ánh sáng được. Nơi có chân lí chắc chắn sẽ có ánh sáng; nó chỉ trông như bóng tối đối với chúng ta. Nếu chúng ta hỏi nhà huyền môn Sufi, họ sẽ bảo chúng ta rằng khi chúng ta đi sâu vào thiền không chỉ có một mặt trời, có cả nghìn mặt trời. Cho nên việc tràn trề ánh sáng thì dường như là có vô số mặt trời đang chiếu sáng đồng thời bên trong. Một cách tự nhiên, chúng ta sẽ bị loá mắt như mù.
Chân lí được ẩn trong ánh sáng. Và bạn có để ý không? - thật dễ dàng cho chúng ta mở mắt trong bóng tối, nhưng rất khó để mở mắt trong sự tràn trề ánh sáng. Có gì khó khăn trong việc để mắt mở, hay trong việc mở chúng, vào đêm không trăng? Nhưng nếu mặt trời chiếu vào mắt chúng ta thấy rất khó mở mắt ra.
Xung đột cuối cùng của những người tiến tới chân lí là với ánh sáng, không phải với bóng tối.
Lời kinh này nói về thời kì đó của xung đột. Trong khoảnh khắc đó người tìm kiếm cầu nguyện, “Xin Thượng đế bỏ tấm màn đó ra để cho con có thể thấy được khuôn mặt nguyên thuỷ, thực sự của ngài.” Có vẻ hoàn toàn tự nhiên nếu ai đó cầu nguyện, “Xin đưa chúng con ra xa khỏi bóng tối; xin dẫn dắt chúng con ra khỏi bóng tối,” nhưng, “Xin bỏ ánh sáng này”... là sao? Và một điểm đáng quan tâm nữa là từ vàng được dùng để mô tả ánh sáng - đấy là một từ rất dễ chịu. Ánh sáng này giống như vàng. Nó là ánh sáng mà chúng ta sẽ không có ước ao nào bỏ nó đi. Rất khó để yêu cầu nó được bỏ đi, nhưng chân lí không thể được thấy cho tới khi ánh sáng đó được loại bỏ. Cho nên để chúng ta hiểu điểm này.
Rất dễ dàng từ bỏ cái xấu, nhưng khó khăn thực nảy sinh khi thời điểm tới để từ bỏ cái tốt. Đâu là khó khăn khi từ bỏ xiềng xích sắt? Khó khăn nảy sinh khi xiềng xích vàng bị từ bỏ, bởi vì khó mà coi xiềng xích vàng là xiềng xích. Chúng trông như đồ trang sức. Rất dễ dàng vứt bỏ cái không thánh thiện, nhưng ngay cả cái thánh thiện cũng trở thành cảnh nô lệ trong giai đoạn cuối cùng. Khi điều ấy nữa cũng phải từ bỏ, khó khăn lớn nảy sinh. Trong giai đoạn cuối cùng đó cái tốt cũng phải bị từ bỏ, bởi vì ngay cả gắn bó ngần ấy trở thành cảnh nô lệ, và ngay cả cảnh nô lệ ngầy ấy là rào chắn trong việc tìm kiếm chân lí. Chỉ tuyệt đối không gắn bó, tuyệt đối tự do mới có tác dụng. Cho nên người tìm kiếm này, người đã phải tranh đấu với bóng tối và đã chinh phục được nó, bây giờ cầu nguyện Thượng đế rút bỏ tấm màn vàng. Không khó khăn để tranh đấu chống lại bóng tối, nhưng sẽ có nhiều khó khăn khi khoảnh khắc tới để tranh đấu chống lại ánh sáng.
Ánh sáng - và tranh đấu chống lại nó sao? Điều này thật đáng ngạc nhiên. Ánh sáng dễ chịu thế, tuyệt trần thế, đem lại an bình thế, hăng hái, đầy nước cam lồ của cuộc sống đến mức thật đau đớn phải nói tới việc loại bỏ nó. Và do đó hiền nhân này cầu nguyện Thượng đế rút bỏ nó: “Tự con không thể làm được điều đó. Tâm trí con sẽ thuyết phục con rằng hội nhập vào với nó là hơn,” Nhớ lấy, bạn sẽ phải tự cứu bản thân mình ngay cả với ánh sáng khi thiền của bạn đem bạn tới sự chói lọi tối thượng của nó. Cuộc hành trình của bạn phải đi ra ngoài cả điều đó. Bạn phải vượt qua nó, bạn phải siêu việt lên nó. Bạn phải vượt ra ngoài bóng tối, và vượt ra ngoài ánh sáng nữa. Khi tâm thức đi ra ngoài bóng tối và ánh sáng, nhị nguyên chấm dứt và bất nhị bắt đầu. Thế thì cái một đó được thấy, cái không ánh sáng không bóng tối, không đêm không ngày, không sống không chết, cái bao giờ cũng có đó, và vượt ra ngoài tất cả mọi nhị nguyên. Bạn đối diện với xung đột cuối cùng với ánh sáng trước khi cái bất nhị đó được đạt tới.
Cách khác để hiểu điều ấy là thế này: bao giờ cũng dễ dàng từ bỏ bất hạnh; cái mà chúng ta có thể tranh đấu chống lại. Nhưng nếu hạnh phúc tới trên con đường của chúng ta, rất khó để tranh đấu chống lại nó - gần như không thể được. Làm sao chúng ta có thể tranh đấu chống lại nó được? Nhưng giải thoát là không thể có được nếu chúng ta bị mắc và bị gắn vào hạnh phúc. Như tôi đã nói với các bạn sáng nay, hạnh phúc sẽ tạo ra cõi trời cho bạn, và trong cõi trời đó bạn sẽ thấy mình lại trong cảnh nô lệ, bị cám dỗ vào trong hoan lạc và tình yêu; không có giải thoát ở đây.
Lời cầu nguyện này, ham muốn này của hiền nhân để rút bỏ tấm màn ánh sáng và thấy khuôn mặt của Brahman bị bao phủ bởi ánh sáng loá mắt đó, làm lộ ra cái bất lực cuối cùng của tâm trí con người. Tâm trí con người không có ao ước được tự do khỏi ánh sáng hay hạnh phúc hay cõi trời. Nhưng người ta phải tự do khỏi chúng. Hiền nhân này đang đứng ở ngưỡng cửa. Một bên là bản tính con người của ông ấy, cái thúc giục ông ấy nhảy múa với vui thú trong ánh sáng đó, để đồng nhất bản thân mình với ánh sáng đó và được hấp thu vào trong nó; trong khi bên kia là khao khát sâu xa bên trong về chân lí, cái thôi thúc ông ấy vượt ra ngoài. Chính trong khoảnh khắc khó khăn và quyết định đó mà ông ấy thốt ra lời kinh này, lời cầu nguyện này, “Xin Thượng đế cởi bỏ tấm màn ánh sáng quá mức đó ra. “ Ông ấy cầu nguyện, “Xin cởi bỏ vui thích này, dạng tuyệt trần này để cho con có thể thấy chân lí hoàn toàn, trần trụi, mà chính là ngài!”
Những người sống trong khổ không biết rằng hạnh phúc có cái khổ của nó. Những người sống giữa kẻ thù không biết rằng bạn bè cũng có những xung đột riêng của họ. Những người sống trong địa ngục không biết rằng cõi trời có những rắc rối của riêng nó. Làm sao những người sống trong bóng tối hình dung được rằng ánh sáng trở thành nhà tù?
Chừng nào có nhị nguyên không có giải thoát, có cảnh nô lệ. Thế thì cái gì sẽ còn lại khi ánh sáng bị loại bỏ đi, khi bóng tối bị loại bỏ đi? Cái gì là khuôn mặt của chân lí? Cái gì được thấy? Hiện tại, như trí tuởng tượng của chúng ta có thể vươn tới, cái xa nhất ý nghĩ của chúng ta có thể bay tới, cái xa nhất tâm trí chúng ta có thể đạt tới, cực điểm chúng ta có thể hình dung ra là ở chỗ nếu chân lí có khuôn mặt nó sẽ là ánh sáng - ánh sáng chói lọi. Tại sao chúng ta nghĩ như vậy?
Hiểu một hay hai điểm. Chúng ta vẫn chưa thấy ánh sáng đâu. Bạn có thể đáp, “Thầy ngụ ý gì, chúng tôi không thấy ánh sáng sao? Chúng tôi có thấy ánh sáng đấy. Chúng tôi thấy ánh sáng khi mặt trời lên vào buổi sáng. Chúng tôi thấy ánh sáng vào ban đêm khi trăng chiếu sáng và có ánh trăng mọi nơi.” Không, tôi nhắc lại, bạn chưa thấy ánh sáng đâu. Bạn chỉ thấy các vật được chiếu sáng. Khi mặt trời lên bạn thấy mọi vật được chiếu sáng - núi, sông, suối, cây, người. Bóng điện bây giờ đang cho bạn ánh sáng. Bạn sẽ nói, “Chúng tôi thấy ánh sáng.” Nhưng không, bạn không thấy ánh sáng. Bạn thấy bóng điện chiếu sáng. Bạn thấy mọi người đang đứng trong ánh sáng của nó. Bạn thấy các đối tượng, không phải là ánh sáng. Không thể có bất kì kinh nghiệm nào về ánh sáng trong thế giới bên ngoài. Chỉ những đối tượng phát sáng được thấy, và khi chúng không được thấy chúng ta nói đó là bóng tối. Khi nào có bóng tối trong phòng này? Khi không gì có thể được thấy trong phòng này chúng ta nói có bóng tối, và khi các đối tượng là thấy được thì chúng ta nói có ánh sáng.
Chúng ta không thấy ánh sáng trực tiếp. Nếu không có vật nào trong phòng này bạn sẽ không có khả năng thấy được ánh sáng. Ánh sáng chạm vào một vật; hình dạng của vật này được bạn thấy và bạn nghĩ bạn đang thấy ánh sáng. Nếu vật này được thấy rất rõ ràng bạn nói có nhiều ánh sáng, nếu nó không được rõ ràng lắm bạn nói ánh sáng không đủ, và nếu nó không được thấy chút nào bạn nói có bóng tối. Nếu bạn không thể biết được cái gì về hình dạng và đối tượng bạn nói trời tối đen như hắc ín. Nhưng bạn dã không thấy ánh sáng lẫn bóng tối. Chính sự phỏng đoán của chúng ta là có ánh sáng bất kì khi nào ta có thể thấy các đối tượng. Thực ra, bản thân ánh sáng là một năng lượng chốc lát đến mức nó không thể được thấy từ bên ngoài.
Ánh sáng là thấy được ở bên trong bởi vì không có đối tượng nào bên trong mà có thể được chiếu sáng. Không có các đối tượng bên trong mà có thể phát sáng và chúng ta có thể thấy được, cho nên khi chúng ta kinh nghiệm ánh sáng bên trong, đấy là ánh sáng thuần tuý, nó là trực tiếp, nó không có bất kì trung gian nào. Chúng ta thấy hai thứ bên ngoài - đối tượng được chiếu sáng và nguồn ánh sáng; và ánh sáng ở giữa hai điều này chúng ta không bao giờ thấy được. Mặt trời là thấy được hay bóng điện là thấy được, và các vật được chiếu sáng ở đây là thấy được; nhưng ánh sáng ở giữa cả hai là không thấy được.
Khi ánh sáng được thấy ở bên trong không có các đối tượng, không có nguồn nào cả - nó là ánh sáng vô nguồn. Không có mặt trời mà từ đó ánh sáng toả ra. Không có đèn phát ra ánh sáng. Chỉ có ánh sáng vô nguồn. Khi ánh sáng được thấy lần đầu tiên trong thế giới vô vật ấy, thế thì Kabir, Mohammed, các nhà huyền môn Sufi, các nhà huyền môn Baul, các nhà huyền môn Jaina, bắt đầu nhảy múa, tuyên bố điều chúng ta gọi là ánh sáng thì chỉ là bóng tối.
Aurobindo đã viết, “Một lần tôi đã thấy bên trong, vấn đề trở nên rõ ràng rằng cái mà tôi vẫn hiểu là ánh sáng đã là bóng tối. Khi tôi nhìn vào bên trong tôi đã thấy rằng cái mà tôi đã coi là sống thực tế là chết.” Quả thực rất khó để nhận ra và chịu đựng ánh sáng, vô nguồn, vô vật và vô hình dạng được sinh ra bên trong. Khó khăn lớn nhất là ở chỗ tâm trí chúng ta có khuynh hướng nghĩ, “Mình đã đạt tới chỗ kết thúc của cuộc hành trình của mình, mình đã đạt tới đích đến của mình.”
Giác quan không phải là chướng ngại lớn trên con đường của người tìm kiếm chân lí; người đó vượt qua chúng. Ý nghĩ cũng không phải là cản trở lớn; người đó vượt ra ngoài chúng. Nhưng chân chúng ta từ chối di chuyển khi đoá hoa của vui mừng và vui vẻ của thành đạt bắt đầu hiển lộ bên trong. Chúng ta cảm thấy không thích từ bỏ chúng và loại bỏ chúng. Chúng ta thấy thiếu dũng cảm và bạo dạn trong mình để vượt ra ngoài chúng, và chúng ta nghĩ chúng ta đã đạt tới đích. Đây là khoảnh khắc hiền nhân này đã cầu nguyện, “Xin Thượng đế cởi bỏ ánh sáng chói lọi này nữa. Con ước ao biết cái nằm ngoài ánh sáng ấy. Con đã đi qua bóng tối - bây giờ xin đưa con vượt ra ngoài ánh sáng.”
Nhớ lấy điều này. Ý chí và quyết tâm có thể giúp chúng ta vượt ra ngoài bóng tối, nhưng chỉ buông xuôi giúp chúng ta vượt ra ngoài ánh sáng. Chúng ta phải đi vào trong xung đột để vượt ra ngoài bóng tối; chúng ta phải vật lộn và tranh đấu vất vả. Và con người tìm thấy đủ sức mạnh trong tranh đấu với bóng tối, nhưng con người tuyệt đối yếu đuối khi cơ hội nảy sinh để tranh đấu chống lại ánh sáng. Con người gần như là không có. Quyết tâm và ý chí mạnh mẽ sẽ không có tác dụng ở đây; chúng là vô hiệu quả. Chỉ buông xuôi có hiệu lực.
Lời kinh này nói cho chúng ta về buông xuôi. Hiền nhân này đã tới chỗ ánh sáng được sinh ra. Bây giờ ông ấy bị thất bại. Cho tới lúc này ông ấy đã không cầu nguyện để được giúp đỡ. Cho tới lúc này ông ấy đã không yêu cầu Thượng đế làm bất kì điều gì cho mình. Với tự tin trong bản thân mình, ông ấy đã làm ra con đường của mình cho tới điểm này. Con người có thể đi xa tới điểm này, nhưng những người phụ thuộc vào quyết tâm không bao giờ có thể vượt ra ngoài điều này. Chỉ những người được chuẩn bị để buông xuôi toàn bộ mới có thể vượt qua biên giới này.
Điều này sẽ dễ hiểu nếu chúng ta diễn tả nó theo cách này: thiền đưa chúng ta tới kinh nghiệm lớn về ánh sáng. Sau điều này, thiền không còn hữu dụng. Cho nên những người chưa bao giờ thực hành thiền mà chỉ cúng dường lời cầu nguyện là ngu xuẩn - không có nhu cầu về lời cầu nguyện nơi họ đang ở. Và những người đã thực hành thiền và coi lời cầu nguyện là không cần thiết cũng là ngu xuẩn, bởi vì thiền sẽ đem chúng ta tới cánh cửa ánh sáng, nhưng một khi ở đấy rồi, chỉ lời cầu nguyện chân thành sâu sắc mới có thể có ích.
Đến cuối bạn sẽ phải cầu nguyện, “Con đang trong tay ngài, xin dẫn con đi! Con đã tới điểm này, bây giờ xin dẫn con vượt ra ngoài điều này.” Và nhớ lấy, người đã du hành tới những giới hạn của thiền giành được quyền yêu cầu Thượng đế dẫn mình vượt ra ngoài. Bây giờ, khi ân huệ của Thượng đế bắt đầu giáng xuống người đó, người đó được chuẩn bị. Người đó đã đạt tới nơi xa nhất con người có thể tới, và ngay cả Thượng đế cũng không thể trông đợi nhiều hơn điều này từ người đó. Đây là giới hạn tột bậc của khả năng con người. Nếu bây giờ Thượng đế cũng đòi hỏi thêm từ con người, đấy là bạo chúa, đấy là quá đáng.
Không còn vấn đề nào hơn vấn đề này nảy sinh. Bây giờ, chỉ lời cầu nguyện có thể giúp ích, và lời cầu nguyện là, “Con buông xuôi theo tay ngài: Xin Thượng đế cởi bỏ tấm màn này.” Lời cầu nguyện là bước đưa thiền tới sự hoàn tất của nó, và buông xuôi toàn bộ là bước cuối cùng trên con đường của ý chí và quyết tâm. Bạn phải nỗ lực nhiều nhất có thể được, nhưng khoảnh khắc bạn cảm thấy, “Mình không thể đi xa hơn thế này,” phải viện tới lời cầu nguyện. Vào khoảnh khắc đó, kêu to xin ân huệ của Thượng đế đi; nói với ngài, “Con đã đi xa nhất có thể được trên đôi chân yếu đuối của mình, nhưng điều đó nằm ngoài khả năng con đi xa hơn. Bây giờ xin ngài chăm nom cho con!” Đây là khoảnh khắc khi hiền nhân cầu nguyện rằng tấm màn có thể được cởi bỏ và khuôn mặt thật được lộ ra.
Chân lí sẽ giống cái gì? Nó sẽ giống cái gì khi ánh sáng cũng bị bỏ đi? Cần phải hiểu thấu điều này. Sẽ rất khó, rất tinh tế và sâu sắc, nhưng cần phải hiểu nó một chút sao cho nó có thể hữu dụng cho chúng ta. Tôi đã bảo các bạn rằng trong thế giới bên ngoài có các đối tượng được chiếu sáng và có nguồn sáng. Không có kinh nghiệm về bản thân ánh sáng trong thế giới bên ngoài. Nó chỉ được kinh nghiệm ở bên trong, nơi không có đối tượng lẫn nguồn sáng. Và thế thì, chung cuộc, ánh sáng cũng biến mất.
Chúng ta nghĩ sẽ có bóng tối khi ánh sáng biến mất, đó là kinh nghiệm của chúng ta; và chúng ta có thể coi lời cầu nguyện của hiền nhân này là ngu xuẩn, bởi vì làm sao ông ấy có thể thấy khuôn mặt của Thượng đế trong bóng tối mà sẽ có đó khi tấm màn ánh sáng được cởi bỏ ra? Nhớ lấy, ông ấy đã chinh phục bóng tối; bây giờ, khi ánh sáng biến mất, sẽ không có bóng tối.
Bóng tối đã biến mất từ lâu trước đó rồi. Đối mặt với ông ấy bây giờ là tấm màn ánh sáng. Cái gì sẽ còn lại khi ánh sáng biến mất?
Khi mặt trời lặn đấy là buổi tối; đêm còn chưa tới. Đó là thời kì mà nguồn sáng đã biến mất và bóng tối chưa trùm xuống. Khoảnh khắc chúng ta đang tìm kiếm để mô tả là lúc chạng vạng nằm giữa ngày và đêm. Đó là lí do tại sao lời cầu nguyện và lúc chạng vạng được mô tả bởi cùng một từ Hindu - sandhya - chúng là đồng nghĩa. Người ta bắt đầu gọi lời cầu nguyện là sandhya, và lấy lúc mặt trời lặn làm thời gian cầu nguyện. Có hai sandhya - một trước khi mặt trời mọc và một sau khi mặt trời lặn. Chúng là các điểm giữa; ngày qua rồi nhưng đêm còn chưa tới, hoặc đêm qua rồi và ngày còn chưa tới. Lỗ hổng nhỏ đó giữa cả hai được biết là sandhya, và chúng ta đã lấy thời kì đó làm thời gian tôn thờ và cầu nguyện. Nhưng sự kiện thực là khác.
Sandhya đơn thuần là biểu tượng cho khoảnh khắc đó của sandhya bên trong, khi cả hai bóng tối và ánh sáng đã biến mất. Sandhya tới khi không có bóng tối không ánh sáng, chỉ có một loại ánh sáng đặc biệt được biết là alok. Ý nghĩa từ điển của từ này là ánh sáng. Điều ấy là không đúng. Alok có nghĩa là khoảnh khắc không bóng tối không ánh sáng. Vào lúc bình minh mặt trời còn chưa lên nhưng đêm đã trôi qua rồi. Khoảnh khắc đó của alok là bình minh. Tôi tham chiếu điều này như một minh hoạ để cho bạn có thể hiểu thấu ý tưởng, bởi vì không có cách nào khác để cho bạn một ý tưởng về việc xảy ra đó ở bên trong. Không có bóng tối không có ánh sáng. Chỉ có alok.
Như tôi đã nói với bạn, cả đối tượng và nguồn sáng biến mất khi bạn quay vào trong và chỉ có ánh sáng còn lại. Một khi ánh sáng đó, và cả bóng tối nữa, mất đi thì chỉ còn lại alok, thế thì cả hai người biết và cái được biết cũng biến mất. Người thấy và cái được thấy cả hai đều mất. Thế thì không phải là hiền nhân này đang đứng đó nhìn vào chân lí, không; thế thì bản thân hiền nhân trở thành chân lí. Thế thì chân lí trở thành hiền nhân. Thế thì không có người biết không có cái được biết - cả hai biến mất. Trong alok, bóng tối và ánh sáng, người biết và cái được biết không còn nữa. Không có người kinh nghiệm không có kinh nghiệm, chỉ có việc kinh nghiệm. Nơi có kinh nghiệm, kinh nghiệm có đấy và cái được kinh nghiệm có đấy. Không, ở đây không có người kinh nghiệm không có cái được kinh nghiệm. Chỉ việc kinh nghiệm còn lại. Hiền nhân đang kinh  nghiệm không còn nữa, Thượng đế không còn nữa. Khác biệt, phân biệt biến mất. Người yêu và đối tượng của tình yêu không còn nữa. Đó là khoảnh khắc của giải thoát tối cao.
Không phải là trong khoảnh khắc này chúng ta đi tới biết cái gì đó. Ngược lại, chúng ta biết rằng chúng ta không có; và chúng ta cũng biết rằng không cái gì còn lại để biết. Chỉ có việc biết còn lại. Cho nên thuật ngữ này được Mahavira dùng là thật tuyệt diệu. Ông ấy đã gọi nó chỉ là việc biết. Người biết không có, cái được biết không có - chỉ có việc biết. Cả hai đầu đã mất.
Nó cũng giống như thế này: mặt trời, cội nguồn nguyên thuỷ, mất đi và các đối tượng nhận ánh sáng cũng mất đi. Tương tự người biết - nguồn gốc - mất đi, và các đối tượng được biết cũng mất đi; chỉ việc biết còn lại.
Trong cuộc hành trình hướng tới việc biết này, như tôi đã bảo các bạn, bước đầu tiên là quyết tâm - ý chí mạnh mẽ - và bước thứ hai là buông xuôi. Bước thứ nhất là về thiền, bước thứ hai là về lời cầu nguyện.
Với người đã đi cả hai bước không cái gì còn lại để được biết hay được đạt tới hay được kinh nghiệm.
Xem tiếp Chương 17 - Quay về Mục lục

Ads Belove Post