Chương 1. Tất cả là phép màu

Chương 1. Tất cả là phép màu

Price:

Read more

Osho - Nhịp đập của tuyệt đối
Chương 1. Tất cả là phép màu

Cái đó là toàn thể, và cái này cũng là toàn thể. Vì chỉ cái toàn thể được sinh ra từ toàn thể; và khi cái toàn thể được lấy ra từ cái toàn thể, Chú ý, phần còn lại là toàn thể.
Om. An bình, an bình, an bình.
Ishavasya Upanishad bắt đầu và kết thúc với lời kinh này, và trong nó là tuyên bố về tất cả những gì có thể được nói tới. Nó hoàn toàn là duy nhất. Với những người hiểu nó đầy đủ, không cần thêm gì nữa; phần còn lại của Upanishad chỉ dành cho những ai không hiểu. Do vậy lời cầu nguyện an bình, thường đưa Upanishad tới việc kết thúc của nó, ở đây được gợi ra tại chỗ cuối của chính lời kinh đầu tiên. Và với những người đã đi lên đến đỉnh của hiểu biết, đây là chỗ kết thúc của Ishavasya; nhưng với những người vẫn còn đang trèo lên, nó chỉ là bắt đầu.
Phần về tính duy nhất của nó nằm trong sự sáng tỏ mà với nó có phân biệt giữa các phương pháp tư duy và lập luận  của phương Đông và phương Tây. Hai trường phái lập luận đã nở hoa trên thế giới - một trường phái ở Hi Lạp, và trường phái kia ở Ấn Độ. Hệ thống logic của Hi Lạp đã cho sinh thành ra toàn thể khoa học phương Tây, trong khi từ hệ thống Ấn Độ nổi lên tôn giáo. Khác biệt nền tảng nhất và đầu tiên giữa hai trường phái này nằm ở phương Tây - Hi Lạp - phương pháp tiến dần tới kết luận. Bất kì khi nào chúng ta tìm kiếm chân lí về vật chất, câu hỏi đầu tiên sẽ dẫn qua việc nghiên cứu tới kết luận cuối cùng; đầu tiên, ý nghĩ và câu hỏi, thế rồi kết luận.
Cách thức Ấn Độ đích xác là cái đối lập. Ấn Độ khẳng định rằng cái chúng ta định nghiên cứu bao giờ cũng có đó. Nó không lấy hình dạng như kết quả của việc hỏi của chúng ta, nhưng nó đã hiện diện thậm chí trước cả khi việc nghiên cứu của chúng ta bắt đầu. Chân lí mà sẽ trở nên biểu hiện đã có đó trước khi chúng ta ở trong sự tồn tại. Nó đã có đó trước khi chúng ta khám phá ra nó hệt như nó có đó khi chúng ta đã làm như vậy. Chân lí không được hình thành hay được xây dựng qua nghiên cứu của chúng ta; điều nghiên cứu làm là đem nó vào trong thực tại của kinh nghiệm chúng ta. Chân lí bao giờ cũng hiện diện. Đó là lí do tại sao cách thức Ấn Độ về lập luận tuyên bố kết luận ngay từ đầu, và sau đó thảo luận tới phương pháp và thủ tục; trước hết kết luận, thế rồi đến phương pháp. Cách thức phương Tây  đặt phương pháp lên trước, rồi điều tra, và cuối cùng kết luận.
Một điểm quan trọng nên lưu tâm: phương pháp phương Tây rất thích hợp cho những người tìm kiếm chân lí bằng việc suy nghĩ về nó. Phương pháp lập luận này giống như việc cố tìm ra điều gì đó trong đêm tối với sự giúp đỡ của chiếc đèn nhỏ. Đêm tối như mực, và ánh sáng toả ra mờ nhạt trong khoảng một mét dưới đất. Chỉ thấy được một miếng nhỏ, phần lớn vẫn còn không thấy được; và kết luận được đưa tới về cái được thấy sẽ là không dứt khoát. Sau một chốc, khi người ta tiếp tục với chiếc đèn, thêm một chút ít nữa trở thành thấy được, và cần sửa lại hay thay đổi kết luận. Khi người ta tiến xa thêm chút nữa, những điều mới liên tục trở thành thấy được và do vậy kết luận lại bị thay đổi lặp đi lặp lại.
Đi theo như người ta làm với trường phái logic Hi lạp, khoa học Phương Tây không bao giờ đạt tới kết luận cuối cùng. Mọi kết luận của nó do đó đều không dứt khoát, tạm thời, và dựa trên tri thức thu nhận được cho đến thời hiện tại. Nếu cái gì đó mới được phát hiện ra ngày mai, sẽ có thay đổi trong kết luận. Đó là lí do tại sao không chân lí nào được đạt tới bởi phương Tây là tuyệt đối. Nó là không toàn bộ. Mọi chân lí và kết luận của nó đều bất toàn. Nhưng chân lí không bao giờ là bất toàn hay không đầy đủ cả, và bất kì cái gì bất toàn đều sẽ là phi chân lí. Cái kết luận mà chúng ta cần sửa đổi vào ngày mai thực ra không phải là chân lí thậm chí cho cả hôm nay! Nó đơn giản có vẻ là chân lí thôi. Cái một mình nó có thể là chân lí, chúng ta không bao giờ cần thay đổi. Cho nên các kết luận đã được phương Tây công bố là chân lí thực sự là phi chân lí dựa trên tri thức thu được cho tới lúc đó và cần thay đổi theo tri thức thu được vào ngày mai.
Hệ thống lập luận Ấn Độ không giống việc nghiên cứu chân lí với sự giúp đỡ của chiếc đèn. Nó giống như việc nghiên cứu đêm tối trong ánh sáng chói lọi của tia chớp, khi mọi thứ đều trở thành thấy được đồng thời. Không phải là cái gì đó - một phần - được thấy bây giờ, thỉnh thoảng về sau phần khác, lại cái gì đó thêm về sau, và cứ như thế; không, cách thức Ấn Độ không giống điều đó. Trong hệ thống Ấn Độ về nghiên cứu, khải lộ của chân lí xảy ra ngay một lúc; mọi thứ đều được khám phá ngay lập tức và đồng thời. Mọi con đường trải rộng đến chân trời, và tất cả - dù là bất kì cái gì - đều được thấy đồng thời trong chớp loé của tia sét. Không có phạm vi nào cho thay đổi trong tương lai vì cái toàn thể đã được thấy.
Phương pháp phương Tây có tên logic nghiên cứu chân lí bằng quá trình suy nghĩ. Cách thức Ấn Độ, điều chúng ta gọi là kinh nghiệm hay trí huệ, phơi bầy tất cả mọi thứ ngay một lúc giống như ánh chớp loé, với kết quả là chân lí hiện ra như nó vậy, trong tính toàn bộ của nó, không để lại chỗ nào cho thay đổi hay sửa đổi. Xem như kết quả, không có tiềm năng nào cho việc thay đổi điều mà Phật hay Mahavira hay Krishna đã nói. Nhưng các nhà tư tưởng phương Tây - nghiêng về hoài nghi và lo nghĩ - hỏi liệu điều Mahavira nói hai nghìn năm trăm năm trước đây có thể vẫn còn đúng cho ngày nay không. Điều hợp lí đối với họ là nêu ra nghi ngờ như vậy; qua suốt một thời kì như thế chúng tôi phải đã trông đợi tới hai mươi nhăm nghìn thay đổi nếu chúng tôi đi tìm chân lí bằng một ngọn đuốc! Những sự kiện mới sẽ xuất hiện mọi ngày, và chúng tôi buộc phải thay đổi hay biến đổi các sự kiện cũ. Nhưng chân lí do Mahavira, Krishna hay Phật tuyên bố là những khải lộ. Chúng không phải là chân lí được tìm ra nhờ ánh sáng đèn; chúng đã được thấy và được biết và được khải lộ trong ánh chớp loé chói lọi của tâm trí tĩnh lặng - tâm trí trống rỗng ý nghĩ. Chân lí mà Mahavira biết đã không được ông ấy khám phá ra dần từng bước; bằng không ông ấy không thể nào biết được chân lí toàn bộ ấy. Ông ấy biết nó với tính toàn bộ của nó trong một khoảnh khắc.
Điều tôi muốn nói với bạn là ở chỗ mọi thứ được khải lộ trong tính toàn bộ của nó thông qua trí huệ của phương Đông là được bao hàm trong lời kinh ngắn gọn này. Nó có đấy trong tính toàn bộ của nó. Đây là lí do tại sao chúng ta ở Ấn Độ vẫn công bố rằng kết luận là trước nhất và rồi việc hỏi theo sau. Công bố về chân lí được thực hiện lúc ban đầu, thế rồi chúng ta thảo luận về cách chân lí có thể được biết, cách thức nó đã được biết tới, và cách thức điều đó có thể được giải thích. Kinh này là lời công bố - bản tuyên ngôn. Phần còn lại của cuốn sách này là không bản chất cho những ai có thể hiểu ý nghĩa đầy đủ từ lời công bố này. Không cái gì mới sẽ được phát biểu trong toàn bộ Upanishad: chân lí sẽ được kể đi kể lại mãi theo nhiều cách khác nhau. Phần còn lại của cuốn sách này là dành cho những người mù loà trước tia chớp chói lọi của sét, và bướng bỉnh đi tìm kiếm chân lí với sự trợ giúp của chiếc đèn. Với ánh sáng của chiếc đèn này, chân lí có thể được nhặt ra từng dòng một trong lời kinh Ishavasya; nhưng trước hết chủ đề này được trình bày trong tính toàn thể của nó trong lời kinh vĩ đại này. Đấy là lí do tại sao tôi nói cho bạn kinh này là duy nhất thế: nó nói mọi điều. Bây giờ chúng ta sẽ cố gắng hiểu nó.
Nó tuyên bố rằng cái toàn thể được sinh ra từ cái toàn thể, và vậy mà cái còn lại đằng sau bao giờ cũng là cái toàn thể; đến cuối cùng cái toàn thể được hấp thu vào trong cái toàn thể; và thậm chí thế thì cái toàn thể không tăng thêm chút nào, nó vẫn còn như nó trước đây. Đây là một phát biểu phản toán học rất vĩ đại. P.D. Ouspensky đã viết một cuốn sách tên là Tertium Organum. Ông ấy là một nhà toán học có tiếng của Nga, người trong những năm cuối đời, như một đệ tử của một thầy phương tây xuất sắc, Gurdjieff, tự mình đã trở thành nhà huyền học. Ông ấy là một thiên tài toán học, thông minh của ông ấy thấm suốt độ cao và chiều sâu của đề tài của ông ấy.
Phát biểu đầu tiên ông nêu ra trong cuốn sách tuyệt diệu này là ở chỗ chỉ có ba tác phẩm vĩ đại về tư tưởng trên thế giới. Tác phẩm thứ nhất, mang tựa đề Organum, của Aristotle, cha đẻ của khoa học logic phương Tây. Organum nghĩa là nguyên lí về tri thức. Cuốn sách thứ hai là của Francis Bacon và có tên là Novum Organum - nguyên lí mới về tri thức. Và cuốn sách thứ ba là cuốn của riêng ông ấy, được mang tên Tertium Organum - nguyên lí thứ ba về tri thức. Ông còn viết tiếp sau phát biểu này một câu ngắn mà đã từng thách đố cho nhiều người: “Trước khi cuốn thứ nhất tồn tại, đã có cuốn thứ ba rồi.” Tức là, nguyên lí thứ ba đã có trên thế giới này trước khi nguyên lí thứ nhất được phát hiện ra. Cuốn sách thứ nhất do Aristotle viết ra hai nghìn năm trước đây, cuốn thứ hai do Bacon viết ba trăm năm trước đây, và cuốn thứ ba mới được viết ra quãng bốn mươi năm trước đây. Nhưng Ouspensky nói cuốn thứ ba đã tồn tại trên thế giới này trước khi cuốn thứ nhất được viết ra, mặc dầu ông ấy đã viết cuốn sách thứ ba này chỉ bốn mươi năm trước đây. Khi bất kì ai hỏi ông ấy ý nghĩa của phát biểu kì dị, phi logic này, ông ấy trả lời, “Bất kì cái gì tôi đã viết ra đều không được viết ra bởi tôi. Nó đã tồn tại trong sự tồn tại rồi; tôi đã đơn giản tuyên bố nó thôi.”
Trái đất này đã dưới ảnh hưởng của lực hấp dẫn từ trước khi Newton được sinh ra. Trái đất hấp dẫn hòn đá từ trước sự ra đời của ông ấy theo hệt như cách nó đã tiến hành từ trước tới nay. Newton đã không phát minh ra nguyên lí hấp dẫn, ông ấy chỉ làm lộ nó ra. Ông ấy đã mở ra cái bị giấu kín, ông ấy làm cho mọi người biết tới cái còn chưa được biết. Nhưng lực hấp dẫn đã có đấy từ trước Newton; bằng không bản thân Newton đã không thể có đó được. Newton không thể đã được sinh ra mà không có lực hấp dẫn. Lực hấp dẫn có thể tồn tại không có ông ấy, nhưng ông ấy không thể tồn tại không có lực hấp dẫn của trái đất. Nó đã tồn tại nhưng còn chưa được biết tới trên thế giới thôi.
Ouspensky nói nguyên lí thứ ba của ông ấy tồn tại từ trước khi nguyên lí thứ nhất đã được biết tới. Nó không được biết tới là vấn đề hoàn toàn khác; và có lẽ nói nó không được biết cũng là sai, vì điều Ouspensky đã nói qua cuốn sách của ông ấy đã được hàm chứa trong lời kinh nhỏ bé này. Cuốn Tertium Organum của ông ấy là một cuốn sách rất có giá trị. Ông ấy nói rằng chỉ có ba cuốn sách vĩ đại như thế trên thế giới thôi - và cuốn thứ ba của ông ấy - cũng không phải là sai. Ông ấy không nói vậy từ điều hão huyền đâu, đấy là sự kiện. Cuốn sách của ông ấy quan trọng như thế. Nếu ông ấy không nói như vậy, im lặng của ông ấy sẽ chỉ là khiêm tốn giả. Nó là sự kiện, cuốn sách của ông ấy là quan trọng. Nhưng mọi điều ông ấy nói trong đó đều có trong lời kinh nhỏ bé này của Ishavasya Upanishad.
Trong toàn bộ cuốn sách của mình ông ấy đã cố gắng để chứng minh rằng có hai loại số học trên thế giới. Một là ở chỗ nói hai cộng với hai là bốn. Đây là số học đơn giản tất cả chúng ta đều biết, một tính toán đơn giản kiểm chứng rằng nếu chúng ta cộng tất cả các bộ phận của một vật, chúng không bao giờ có thể lớn hơn cái toàn thể của nó. Số học đơn giản nói rằng nếu chúng ta bẻ một vật thành nhiều mảnh thế rồi cộng các mảnh đó lại, tổng của chúng không bao giờ có thể vượt quá cái toàn thể. Đây là một sự kiện đơn giản, trực tiếp. Nếu chúng ta đổi một ru pi thành một trăm xu, tổng của một trăm xu này không bao giờ có thể lớn hơn một ru pi được. Nó có thể lớn hơn được không? Chính số học đơn giản là việc cộng các bộ phận không bao giờ có thể lớn hơn cái toàn thể. Nhưng Ouspensky nói còn có một toán học khác, cao hơn, và đó là toán học của cuộc sống. Trong toán học này, không nhất thiết là hai cộng với hai phải bằng bốn. Lúc thì hai cộng với hai có thể là năm - hay ba. Trong cuộc sống, ông ấy bảo chúng ta, tổng của các bộ phận đôi khi vượt quá cái toàn thể. Chúng ta sẽ phải hiểu điều này rõ ràng hơn chút ít, vì nếu chúng ta không thể hiểu được nó chúng ta sẽ không có khả năng hiểu được đầy đủ ý nghĩa của lời kinh đầu tiên và cuối cùng của Ishavasya.
Một hoạ sĩ vẽ một bức tranh. Giả sử chúng ta ước lượng về giá vật liệu của anh ta. Mầu giá bao nhiêu? Chẳng nhiều mấy, chắc chắn. Còn vải vẽ? Cũng không mấy. Nhưng không công trình nghệ thuật lớn nào, không một bức tranh đẹp nào, đơn thuần là pha trộn mầu sắc được thêm lên vải vẽ: nó là cái gì đó nhiều hơn.
Một nhà thơ soạn ra một bài thơ, một bài ca. Tất cả các từ được dùng trong đó đều hoàn toàn là những từ bình thường chúng ta vẫn dùng hàng ngày. Có lẽ bạn có thể gặp một hay hai từ trong đó ít được dùng thường xuyên hơn; dù vậy, chúng ta vẫn biết chúng. Vậy mà không bài thơ nào đơn giản là tuyển tập các từ. Nó là cái gì đó nhiều hơn tuyển tập và bố trí từ ngữ. Một người chơi đàn sitar; hiệu quả được tạo ra trong tim ta khi nghe những nốt nhạc này của đàn sitar không chỉ đơn thuần là tác động của âm thanh. Cái gì đó hơn nữa làm chúng ta xúc động.
Chúng ta hiểu hiện tượng đó theo cách này. Trong khi nhắm mắt, một người chạm vào tay bạn một cách yêu mến. Lần nữa, cũng người đó chạm vào tay bạn với thất vọng lớn lao. Cái chạm trong cả hai trường hợp là như nhau. Khi có liên quan tới cái chạm thể chất, chạm thân thể không có khác biệt căn bản giữa hai cái chạm này. Vậy mà chắc chắn có một phần tử phân biệt nào đó trong cảm giác về một ai đó chạm vào chúng ta một cách yêu mến: cái chạm của người giận dữ là hoàn toàn khác với cái chạm yêu mến. Và lần nữa, khi ai đó chạm vào chúng ta hoàn toàn dửng dưng chúng ta chẳng cảm thấy gì trong cái chạm đó. Vậy mà hành động chạm là như nhau trong tất cả những trường hợp này. Nếu chúng ta hỏi nhà vật lí, ông ta sẽ đáp rằng mức độ sức ép được sử dụng trên tay chúng ta từ cái chạm của người khác có thể đo được - thậm chí cả lượng nhiệt truyền từ tay nọ sang tay kia cũng có thể đo được. Tuy vậy, tất cả nhiệt, tất cả sức ép, đều không thể bằng bất kì cách nào phơi bầy ra được liệu một người chạm vào chúng ta đã làm như vậy từ yêu hay giận. Vậy mà chúng ta kinh nghiệm khác biệt giữa những cái chạm có khác biệt về chất. Cho nên chắc chắn cái chạm không đơn thuần là tổng của nhiệt, sức ép và điện tích được chuyển vận trong tay: nó là cái gì đó hơn nữa.
Cuộc sống phụ thuộc vào toán học cao hơn. Cái gì đó hoàn toàn mới, và đầy ý nghĩa, được sinh ra từ tổng của các bộ phận. Cái gì đó tốt hơn tổng của các bộ phận được tạo ra. Cái gì đó quan trọng được sinh ra ngay từ những cái thấp nhất. Cuộc sống không chỉ là số học đơn giản - nó là số học tinh tế và sâu sắc hơn nhiều. Nó là số học nơi con số trở thành vô nghĩa, nơi qui tắc cộng và trừ trở thành vô dụng. Người không biết tới cái bí mật này của cuộc sống, cái nằm bên ngoài số học thông thường của cuộc sống, sẽ không hiểu ý nghĩa và mục đích của cuộc sống.
Có nhiều điều ngạc nhiên cho lời kinh vĩ đại này. Nó nói rằng:
Khi cái toàn thể được lấy ra từ cái toàn thể, chú ý, phần còn lại là toàn thể.
Theo quan điểm của số học thông thường điều này tuyệt đối không đúng. Nếu chúng ta loại bỏ một phần nào đó của một vật, phần còn lại không thể cùng như nó lúc đầu. Cái gì đó ít hơn sẽ còn lại. Nếu tôi lấy mười đồng khỏi sổ tiết kiệm có một triệu đồng, tổng số sẽ là cái gì đó ít hơn. Nó sẽ ít hơn thậm chí nếu mười xu được lấy ra. Phần còn lại không thể bằng với số tiền như nguyên gốc ban đầu. Một của cải lớn đến đâu cũng có thể - ngay cả như kho châu báu của Solomon hay Kubla - bị rút bớt nếu chỉ mười xu bị loại bớt khỏi nó; nó không thể như nó trước đây nữa. Tương tự, dù một của cải lớn đến đâu, cứ thêm mười xu vào, nó vẫn lớn ra. Nhưng theo lời kinh này cái toàn thể có thể bị lấy ra từ cái toàn thể - không chỉ mười xu mà toàn bộ của cải - và phần còn lại vẫn cứ là toàn thể.
Điều này dường như giống việc lảm nhảm của người điên có tri thức số học bằng không. Ngay cả người mới bắt đầu cũng biết rằng một vật sẽ ít đi nếu cái gì đó được lấy ra khỏi nó, không thành vấn đề lấy ra ít đến đâu; và nếu cái toàn thể được lấy ra; sẽ không có gì còn lại cả. Nhưng lời kinh này tuyên bố rằng không chỉ cái gì đó, mà cái toàn thể, vẫn cứ còn lại. Những người chỉ biết đến logic của hộp tiền tiết kiệm chắc chắn sẽ không hiểu được hiện tượng này. Hiểu biết dường như từ một chiều hướng hoàn toàn mới.
Tình yêu của bạn có giảm bớt đi khi bạn đem nó cho ai đó không? Bạn có kinh nghiệm thấy bất kì sự khan hiếm tình yêu nào khi bạn cho nó toàn bộ không? Không! ‘yêu’ là từ mà chúng ta cần để đi tới để hiểu lời kinh này; đây là từ chúng ta sẽ phải dùng. Dù bạn cho đi biết bao nhiêu tình yêu của mình, cái còn lại với bạn vẫn nhiều như nó tự nguyên thuỷ. Hành động cho nó đi không tạo ra thiếu hụt. Ngược lại, nó tăng trưởng, tăng thêm khi bạn cho nó đi, nó đi vào bạn càng sâu hơn khi bạn phân phát nó càng nhiều hơn. Khi bạn cho nó một cách tự do, sự giàu có tình yêu bên trong bạn bắt đầu phát triển. Người đem cho toàn bộ tình yêu, một cách tự do và không điều kiện, trở thành người sở hữu tình yêu vô tận.
Số học đơn giản không bao giờ có thể hiểu được rằng khi cái toàn thể được lấy ra từ cái toàn thể, phần còn lại là toàn thể. Chỉ tình yêu có thể tìm thấy nghĩa này trong phát biểu này. Einstein không thể giúp gì được. Tìm kiếm loại trợ giúp đó sẽ là vô dụng. Thay vì vậy tới Meera hay Chaitanya đi; qua họ có lẽ bạn có thể tìm ra cách thức của mình để hiểu, vì đây là một chủ đề liên quan tới cái khác nào đó, chiều hướng không biết, trong đó không cái gì giảm đi khi bị đem cho. Kinh nghiệm duy nhất bạn có mà có khả năng làm cho bạn hiểu được điều này trong tia chớp bất thần của sáng suốt là tình yêu - và trong số một trăm người, chín mươi chín người trong các bạn là mù với kinh nghiệm này. Nếu, trong khi cho đi tình yêu của bạn, bạn kinh nghiệm cảm giác về mất mát, thế thì biết rằng bạn không có kinh nghiệm gì về tình yêu chút nào. Khi bạn trao tình yêu cho ai đó, và cảm thấy bên trong bạn rằng cái gì đó đã biến mất, thế thì biết rằng điều bạn đã cho đi phải là cái gì đó khác. Nó không thể là tình yêu được. Nó phải là cái gì đó thuộc vào thế giới của đô la và đồng bảng. Nó phải là thứ đo đếm được điều có thể được định giá theo con số, cân đong theo số dư và ước lượng theo mét. Nhớ lấy, bất kì cái gì đo đếm được đều là chủ thể cho luật giảm thiểu. Chỉ cái không đo đếm được và không dò được sẽ còn như cũ bất kể bao nhiêu thứ bị lấy ra khỏi nó.
Bạn đã kinh nghiệm rằng tình yêu, khi được trao đi, giảm đi không? Gần như mọi người đều quen thuộc với nó. Nếu ai đó yêu tôi, tôi muốn rằng cô ấy không yêu ai khác nữa, vì lập luận của tôi nói rằng tình yêu bị phân chia là tình yêu bị giảm sút. Cho nên tôi tìm kiếm trở thành người chủ duy nhất và sở hữu tình yêu của cô ấy. Yêu cầu của tôi là ở chỗ người yêu tôi phải không trao dù chỉ một thoáng nhìn yêu đương cho bất kì ai khác; một thoáng nhìn như vậy là chất độc đối với tôi, vì “tôi biết” rằng bây giờ tình yêu của cô ấy với tôi sẽ bắt đầu giảm sút đi. Nếu tôi níu bám vào khái niệm giảm sút tình yêu này, tôi cần phải chấp nhận rằng tôi không có ý tưởng gì về tình yêu là gì. Nếu tôi có bất kì đánh giá cao nào về tình yêu đúng đắn, tôi cũng sẽ muốn người yêu của tôi đi ra và đem tình yêu đó cho toàn thế giới một cách tự do, bởi vì qua việc cho như thế cô ấy sẽ đi tới hiểu ra bí mật của nó và điều bí ẩn của nó, và khi cô ấy rơi ngày càng đi sâu hơn vào trong tình yêu, tình yêu của cô ấy với tôi nữa, cũng sẽ tràn ngập.
Nhưng không, chúng ta dốt nát về toán học cao hơn này. Chúng ta sống trong thế giới của toán học rất đơn giản nơi mọi thứ đều giảm sút đi qua phân phát; cho nên điều hoàn toàn tự nhiên là mọi người sẽ sợ về hành động cho. Vợ sợ chồng cho tình yêu của anh ấy cho ai đó khác, và chồng sợ rằng vợ mình có thể yêu người đàn ông khác. Thực tại, nói về chồng hay vợ có thể rơi vào tình yêu với ai đó khác là bên ngoài vấn đề, vì cái thế khó xử đó đã tồn tại bên trong gia đình rồi. Khi người mẹ biểu lộ tình yêu với con trai, chồng cô ấy ghen; và khi bố biểu lộ tình yêu với con gái, vợ người đó ghen. Căng thẳng phát sinh trong những hoàn cảnh như thế, vì tình yêu thực vắng bóng. Cái cảm giác mà chúng ta vẫn gọi là yêu không phải là tình yêu thực.
Kiểm thử thực sự về tình yêu nằm ở chỗ liệu nó có vượt ra ngoài luật số lượng không. Tình yêu là không đo đếm được. Vứt bỏ ảo tưởng của bạn rằng tình yêu thực suy giảm khi nó được chia sẻ. Chướng ngại là ở sự kiện rằng tất cả những kinh nghiệm khác có sẵn cho chúng ta đều là đo đếm được. Bất kì cái gì chúng ta có đều có thể đo đếm được; giận của chúng ta, ghét của chúng ta, và tất cả những tình cảm khác đều có thể đo đếm được.
Kinh nghiệm duy nhất vượt ra ngoài đo đếm là yêu; và yêu là không được biết với bạn. Đây là lí do tại sao bạn thấy khó hiểu thế về Thượng đế là gì. Người hiểu tình yêu thực là gì không lo nghĩ về việc hiểu Thượng đế, vì nếu bạn biết yêu bạn  biết Thượng đế - chúng là một phần và một mảnh của cùng một số học, chúng thuộc về cùng chiều. Người đã hiểu tình yêu thực sẽ nói, “Cũng được cho dù tôi không biết đến Thượng đế. Tôi đã biết tình yêu, thế là đủ. Mục đích của tôi đã được đáp ứng - tôi đã biết! Tôi đã được điểm đạo vào thế giới cao hơn đó, thế giới mà việc chia sẻ không đem  tới suy giảm, nơi mọi thứ đều được trao một cách tự do và dư dả, vẫn cứ còn lại với người cho.”
Và nhớ lấy, khi bạn cảm thấy bên trong mình một loại tình yêu vẫn còn là toàn thể ngay cả sau khi nó đã được trao đi trong tính toàn bộ của nó, thế thì nhu cầu của bạn về tình yêu của người khác sẽ biến mất, vì tình yêu của riêng bạn không thể tăng lên dù bạn có nhận được tình yêu nhiều đến đâu. Tâm niệm rằng cái không thể bị giảm qua việc đem cho nó đi cũng không thể được tăng thêm lên qua việc nhận nó. Những hiện tượng này xảy ra đồng thời. Cho nên cũng nhận  biết rằng bạn không có kinh nghiệm gì về tình yêu chừng nào mà bạn còn cần đòi hỏi nó từ người khác.
Điều đó không chỉ ở trẻ con mà cả người lớn nữa đấy! - tất cả chúng ta đều đòi hỏi tình yêu, và cứ thế mà đòi hỏi về nó. Qua các kiếp sống chúng ta cầu xin tình yêu. Các nhà tâm lí nói rằng chỉ có một vấn đề trong các kiếp của chúng ta, và đó là nỗi lo âu của chúng ta về cách nhận được tình yêu từ người khác. Tất cả mọi căng thẳng của chúng ta, tất cả mọi lo lắng của chúng ta, nỗi lo sợ và ưu tư đều có thể qui cho duy nhất điều khó xử này; và khi chúng ta không thể tìm thấy được tình yêu, chúng ta tìm kiếm cái thay thế. Qua các kiếp sống của mình chúng ta cố gắng để đạt tới tình yêu; chúng ta ngưỡng mộ mùi thơm của nó, và trong theo đuổi thường xuyên. Tại sao? Trong hi vọng rằng kho dự trữ tình yêu của chúng ta sẽ tăng lên nếu chúng ta nhận nó. Và tất cả những điều này có nghĩa là chúng ta vẫn chưa biết tới tình yêu, vì cái mà tăng lên trong khi nhận thì không phải là tình yêu. Dù khối lượng tình yêu mà chúng ta nhận được nhiều đến đâu không thành vấn đề, tình yêu vẫn cứ còn như nó vậy.
Cho nên người hiểu lời kinh này về tình yêu một cách đầy đủ cũng hiểu hai sự kiện này. Thứ nhất, dù tôi đem cho nó đi nhiều đến đâu, tình yêu của tôi sẽ không giảm đi; và thứ hai, dù tôi nhận được tình yêu nhiều đến đâu, tình yêu trong tôi sẽ không tăng lên. Cho dù toàn thể đại dương tình yêu xô vào trong tôi, tình yêu của tôi sẽ không tăng thêm lấy một giọt, không giảm đi một giọt nếu tôi đem tất cả nó cho đi.
Và khi cái toàn thể được lấy ra từ cái toàn thể, chú ý, phần còn lại là toàn thể.
Toàn bộ vũ trụ này bắt nguồn từ Thượng đế. Nó không nhỏ đâu - nó là vô tận, vô giới hạn, không biên giới. Nó không có chiều hướng, vô thuỷ, vô chung. Thượng đế vẫn còn là toàn thể mặc dầu cái mênh mông như thế đã được sinh ra từ ngài. Và ngay cả khi tất cả vũ trụ bao la này trở về trong cái toàn bộ cao nhất đó - sự tồn tại - và một lần nữa lại được nhận chìm vào trong nó, Thượng đế vẫn còn là toàn thể. Sẽ không có tăng lên không giảm đi trong nó.
Chúng ta cố hiểu hiện tượng này từ tầm hướng khác. Chúng ta biết đại dương: nó là một kinh nghiệm được các giác quan chúng ta thấy và cảm nhận. Nó có thể giảm đi, nó có thể tăng lên. Bao la như nó, nó không phải là vô giới hạn. Sông chảy vào trong nó liên tục, và không bao giờ nổi ra. Mây trên trời cứ lấy nước của nó và mưa rào xuống đất. Không bao giờ có thiếu hụt nước trong biển. Và cho dù nó có giảm đi, vì nó mênh mông thế, nó không là vô tận, không vô giới hạn. Hàng nghìn dòng sông chảy vào trong nó khó làm sai biệt dù chỉ một li nước trong khối lượng của nó; nó bao la thế. Nó thách thức trí tưởng tượng để quan niệm cho nổi và khối lượng nước đã được ném vào trong biển cả mọi khoảnh khắc bởi những con sông như Brahmaputtra, sông Hằng, sông Amazon. Vậy mà với mọi dáng vẻ biển vẫn còn là vậy. Ngày tiếp ngày tia nắng mặt trời làm khô nước của nó, và mây trên trời được sinh ra từ nó. Mặc cho tất cả những thao tác này biển dường như vẫn còn là hằng số về khối lượng, nhưng điều đó thực ra không là sự kiện cho hoàn cảnh không tăng hay giảm. Nó giảm đi và nó tăng lên, nhưng nó bao la đến mức chúng ta không biết gì về những thay đổi này.
Nếu chúng ta ngẩng mặt lên trời và tìm trong không gian, chúng ta gặp một kinh nghiệm thuộc loại khác. Mọi thứ đang tồn tại, tồn tại trong không gian. Chính ý nghĩa của không gian là một phần tử mà trong đó mọi thứ được hàm chứa. Không gian là cái mà trong đó tất cả mọi thứ đều được hàm chứa. Cho nên ghi chép lại, rằng không gian không thể tồn tại bên trong bất kì phần tử nào. Nếu chúng ta bắt đầu suy nghĩ rằng không gian bản thân nó phải được chứa bên trong một phần tử nào khác, chúng ta phải quan niệm về ý tưởng của một không gian lớn hơn nào đó. Tình huống này trở nên khó khăn, và chúng ta bị buộc vào trong nguỵ biện mà các nhà logic gọi là hồi qui vô hạn. Điều này là việc lao vào ngu xuẩn bất tận, trong đó bây giờ chúng ta phải xác định bản chất của không gian lớn hơn mà trong đó không gian này được hàm chứa. Câu hỏi trở thành bất tận, vì bây giờ chúng ta cứ phải hỏi mãi, “Và cái gì là bản chất của phần tử bao quanh?”
Không, chúng ta phải chấp nhận rằng mọi thứ đều được hàm chứa bên trong không gian, và không gian không bị chứa. Không gian bao quanh tất cả và không bị bao quanh. Do đó mọi thứ xảy ra bên trong không gian, nhưng nó không được thêm vào bởi sự xảy ra; và mặc dầu mọi thứ bên trong nó đều đi đến kết thúc, không gian không bị giảm đi. Không gian là như nó vậy. Nó vẫn còn trong cái như thế của nó; nó vẫn còn trong hoàn cảnh riêng của nó. Bạn xây toà nhà, một lâu đài tráng lệ; sau một thời gian, lâu đài của bạn sẽ sụp đổ thành đống đổ nát. Cho nên các lâu đài vươn lên trời xanh sẽ bị thu về mặt đất lần nữa. Không gian sẽ không bị ảnh hưởng gì; nó không bị bớt đi khi bạn xây lâu đài của mình, và nó sẽ không tăng lên khi lâu đài của bạn sụp đổ. Lâu đài được xây dựng bên trong không gian, và tương tự sẽ sụp đổ bên trong không gian. Những biến cố này không gây khác biệt gì trong không gian. Có lẽ, thế thì, không gian đem chúng ta tới gần sự tồn tại hơn: điều này tôi định giải thích cho bạn.
Không gian ở bên ngoài tầm với của chúng ta, nó là không có chất liệu: và vậy mà, trong khi xây nên một toà nhà hay làm bất kì vật gì khác, chúng ta có cảm giác về không gian tăng lên hay giảm đi. Bạn không thể chiếm chỗ tôi đang ngồi, vì tôi đã chiếm không gian này. Có không gian ở đây mà bạn có thể dùng nếu tôi không lấp kín nó. Ở một chỗ chúng ta chỉ có thể xây dựng một toà nhà; chúng ta không thể dựng lên một toà nhà khác tại cùng chỗ ấy. Tại sao? - vì toà nhà được chúng ta xây dựng đã dùng không gian đó. Bây giờ nếu toà nhà này đã dùng không gian đó, có một cảm giác trong không gian đó có thể được nói là đã bị giảm đi. Chúng ta bị bắt buộc phải xây dựng các toà nhà chọc trời chính xác bởi vì không gian bề mặt đất bị giảm đi từng ngày. Khi giá đất tăng lên, các toà nhà được xây dựng cao hơn và cao hơn và đất trở nên đắt hơn vì ngày càng nhiều đất bị chiếm giữ. Cho nên, khi không gian có sẵn bị giảm đi, các toà nhà leo lên cao hơn và cao hơn. Chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ bắt đầu xây dựng những toà nhà dưới đất, vì có giới hạn chiều cao cho điều chúng ta có thể xây dựng.
Chúng ta bận bịu lấp đầy không gian bầu trời của mình, bầu khí quyển của mình. Càng ngày chúng ta càng lấn lên trời, ngấu nghiến ngày càng nhiều không gian hơn. Biết bao nhiêu không gian trống đã giảm đi... Đúng là không gian vô tận trải rộng vào trong cái trống rỗng về mọi phía. Thực sự không thiếu hụt không gian chút nào. Nhưng không không gian nào khác có thể được tạo ra trên đất mà chúng ta đang ngồi. Bất kì chỗ nào các toà nhà đứng, không gian bị dùng. Không gian đất có sẵn cho chúng ta còn lại ít hơn nhiều.
Thượng đế là không giới hạn. Thượng đế không giảm đi. Đại dương, bao la thế với chúng ta, là một giọt tí xíu thế của điều Thượng đế là gì. Vâng, nó là khổng lồ so với những con sông lớn như sông Hằng và Brahmaputtra. Tất cả mọi việc chảy của chúng vào đại dương không tạo ra khác biệt thấy được nào đối với nó; và vậy mà có khác biệt, mặc dầu nó không thể cân đong hay đo đếm được. Lớn hơn biển cả và đại dương rất nhiều là bầu trời; vậy mà đối với chúng ta, điều này nữa cũng có giới hạn. Việc đạt tới khái niệm về Thượng đế cần thêm một bước nhảy nữa, trong đó mọi logic, ý tưởng và tưởng tượng sẽ phải bị vứt bỏ.
Thượng đế có nghĩa là sự tồn tại, hiện hữu - điều đơn giản là: tính đang đấy là thuộc tính của Thượng đế. Bất kì cái gì chúng ta có thể làm, nó không tạo ra khác biệt gì cho tính đang đấy của ngài. Các nhà khoa học có một cách khác để phát biểu chân lí này. Họ nói, “Không cái gì có thể bị phá huỷ.” Điều này có nghĩa là chúng ta không thể loại bỏ được bất kì điều gì khỏi tính đang đấy của nó. Nếu chúng ta muốn phá huỷ một mẩu than, chúng ta có thể biến nó thành tro, nhưng tro đó sẽ tồn tại. Chúng ta thậm chí có thể vứt nó xuống biển; nó sẽ trộn lẫn vào trong nước và sẽ không còn thấy được nữa, nhưng dù hình dạng của nó bây giờ thế nào, nó vẫn sẽ tồn tại. Chúng ta có thể phá huỷ hình dạng của nó, nhưng chúng ta không thể phá huỷ tính đang đấy của nó. Tính đang đấy của nó sẽ vẫn còn mãi mãi. Bất kì cái gì chúng ta cứ làm với nó, sẽ không tạo ra khác biệt gì cho tính đang đấy của nó. Tính đang đấy sẽ vẫn còn. Tất nhiên, chúng ta có thể thay đổi hình và dạng của nó; chúng ta có thể cho nó hàng nghìn hình dạng khác nhau - chúng ta có thể biến đổi nó lặp đi lặp lại - nhưng chúng ta không thể thay đổi cái ở bên trong nó. Cái đó sẽ còn lại. Nó đã là gỗ hôm qua, nó là tro hôm nay. Nó là đất sét hôm qua, hôm nay nó là than. Hôm qua nó là than, hôm nay nó là kim cương. Bao giờ cũng thế, nó vẫn đấy. Không cái gì tạo ra bất kì khác biệt gì cho nó: nó vẫn còn.
Thượng đế là tính đang đấy trong mọi thứ - hiện hữu của chúng, sự tồn tại của chúng. Mọi thứ có thể được tạo ra theo bất kì số lượng nào, nhưng sẽ không có việc bổ sung thêm nào cho tính đang đấy; chúng có thể bị phá huỷ theo bất kì số nào mà dầu vậy sẽ không có việc rút bớt trong tính đang đấy. Nó sẽ vẫn còn như cũ - không hoen ố, không gắn bó và không bị đụng chạm tới.
Khi chúng ta vẽ một đường trên mặt nước, cho dù nó tan biến ngay khi được vẽ ra, cái gì đó đã xảy ra. Thậm chí không một đường tạm thời như thế này có thể được vẽ vào trong sự tồn tại - thậm chí ngần này là không có thể. Lời kinh này nói rằng cái toàn thể này đã đi ra từ cái toàn thể kia. Cái kia là không biết; cái này đã biết. Cái này mà thấy được đã đi ra từ cái kia, cái không thấy được. Cái này mà chúng ta biết được đã đi ra từ cái kia mà chúng ta không biết. Điều này mà chúng ta kinh nghiệm qua đã đi ra từ điều kia mà nằm bên ngoài kinh nghiệm của ta.
Hiểu hiện tượng này cho đúng. Bất kì cái gì rơi vào bên trong kinh nghiệm của chúng ta bao giờ cũng đến từ cái nằm bên ngoài kinh nghiệm của chúng ta. Bất kì cái gì được chúng ta thấy đều nổi lên từ cái không thấy được. Điều chúng ta biết đến từ cái không biết; và bất kì cái gì quen thuộc với chúng ta đều dẫn ra từ cái không quen biết. Nếu chúng ta gieo một hạt mầm, cây mọc lên từ nó. Nếu chúng ta đập hạt mầm và nghiền vụn nó thành từng mảnh, sẽ không có cây. Sẽ không có dấu vết gì của hoa mà đáng ra sẽ nở. Sẽ không có dấu vết gì của những cái lá mà đáng ra sẽ xuất hiện. Chúng tới từ đâu?
Chúng tới từ cái vô hình. Chúng được tạo ra bởi cái vô hình. Mọi khoảnh khắc cái vô hình đang được biến đổi thành cái hữu hình, và cái hữu hình đang mất đi vào cái vô hình. Mọi khoảnh khắc cái vô hạn đi vào trong cái hữu hạn và mọi khoảnh khắc trở lại từ nó. Cũng hệt như qua trình thở của chúng ta - hít vào và thở ra. Cái toàn thể của sự tồn tại liên tục hít vào và thở ra. Những người biết đến bí mật của quá trình thở của sự tồn tại gọi nó là sáng tạo và triệt tiêu. Họ nói sáng tạo xảy ra khi sự tồn tại hít vào, và triệt tiêu xảy ra khi sự tồn tại thở ra, và giữa hai hơi thở này chúng ta trải qua vô hạn kiếp sống. Khi sự tồn tại thở vào rồi thở ra, chúng ta trải qua vô hạn lần sinh thành, không thể đếm được số lần chúng ta tới và đi.
Lời kinh này nói lên hai điều. Thứ nhất, đó là cái toàn thể tới từ cái toàn thể và cái còn lại là cái toàn thể. Thứ hai, đó là khi cái toàn thể bị hấp thu vào trong cái toàn thể, nó vẫn là cái toàn thể. Cái toàn thể đó bao giờ cũng vẫn còn trinh bạch, bao giờ cũng chưa bị động tới. Không cái gì ảnh hưởng tới trinh bạch của nó. Đây là vấn đề rất khó hiểu. Nó giống như thế này: một đứa trẻ được sinh ra, nhưng người mẹ vẫn còn trinh. Câu chuyện như thế đã được kể về Jesus và mẹ của ông ấy, Mary. Sau khi sinh ra Jesus, Mary được gọi là đức mẹ đồng trinh đầy ân huệ. Câu chuyện này lan truyền trong những người biết và hiểu về Jesus và Mary, và nó đích xác giống như sinh thành của sự tồn tại; cái toàn thể tới từ cái toàn thể.
Ki tô giáo không có khả năng giải thích biến cố này. Người Ki tô giáo đã bị trở ngại bởi khái niệm về sinh thành đồng trinh. Họ dốt nát về số học mà có thể để cho người mẹ còn đồng trinh sau khi đã sinh con. Họ không biết chút nào về số học đó; họ hoàn toàn dốt nát về toán học cao hơn. Ki tô giáo bị thách đố lớn. Người Ki tô giáo hỏi, “Làm sao chúng ta có thể giải thích hiện tượng này được? Điều ấy không thể được - đấy là phép màu! Điều ấy tuyệt đối không thể được nhưng nó đã xảy ra, Thượng đế đã cho chúng ta thấy phép màu.”
Bất kì phép màu nào được sự tồn tại trưng ra trong thế giới này đều được trưng ra bởi mọi khoảnh khắc của nó. Không có phép màu nào xảy ra trong thế giới này - hay, để thấy nó theo cách khác, việc xảy ra của mọi khoảnh khắc đều là phép màu. Tất cả đều là phép màu. Khi cây lớn lên từ hạt mầm, đấy là phép màu; và khi đứa trẻ được sinh ra từ bụng mẹ, đấy là phép màu. Không, không có gì lạ ở đây cả: vũ trụ bao la này được sinh ra từ cái toàn thể, vậy mà cái mà nó tới từ đó không bị động chạm. Nếu người mẹ đi sâu đến mức bà ấy bị cuốn hút - theo ý nghĩa của lời kinh này - vào trong cái toàn thể, thế thì đâu là khó khăn trong việc vẫn còn trinh bạch sau khi sinh con? Nếu người mẹ hội nhập vào trong lời kinh này, trở thành một với nó, cô ấy có thể trở thành người mẹ và vẫn còn trinh bạch.
Nhưng người tìm kiếm phải hiểu lời kinh này cho đúng - và tôi đang nói điều này bởi vì tôi thấy ham muốn của bạn để đạt tới. Bạn muốn đạt được cái gì đó. Người tìm kiếm thực sự không nói về tất cả những điều này: sau hết, cái gì có thể xảy ra chỉ bởi việc nói? Người đó biết rằng người đó không biết; và trong bất kì hoàn cảnh nào điều gì có thể xảy ra chỉ qua việc biết? Người đó sống nó. Người đó có ý thức. Có lẽ bạn sẽ hiểu dễ dàng thông qua thực nghiệm cá nhân hơn là bạn sẽ hiểu qua lời tôi. Cho nên thực nghiệm đi. Tự tham dự vào trong một hành động thường lệ, nhỏ bé, và có ý thức vào mọi lúc: Nó đang xảy ra - tôi không làm nó. Thử nó đi. Thấy nó, trong khi làm bất kì cái gì. Thấy nó trong khi ăn, thấy nó trong khi bước dọc đường, thấy nó khi bạn đang giận ai đó. Và nhận biết rằng sự việc đang xảy ra. Đứng đằng sau và là nhân chứng cho điều đang xảy ra - thế thì bạn sẽ phát hiện ra bí mật của lời kinh này. Bạn sẽ giữ chìa khoá bí mật trong tay bạn. Bạn sẽ hiểu rằng cái gì đó đang xảy ra bên ngoài và bạn đang đứng đằng sau, không động chạm và không liên quan. Như bạn đã vậy trước khi làm nó, cho nên bạn vẫn còn lại sau đó, và sự kiện xảy ra ở giữa đến như giấc mơ, và qua đi như giấc mơ.
Với sự tồn tại, luân hồi samsara - bánh xe cuộc sống - không nhiều hơn mơ. Nếu nó trở thành mơ với bạn nữa, thế thì bạn trở thành không tách biệt khỏi sự tồn tại. Tôi nhắc : với sự tồn tại, luân hồi không gì nhiều hơn mơ; và chừng nào luân hồi còn hơn là mơ đối với bạn, bạn sẽ kém hơn sự tồn tại. Cái ngày luân hồi trở thành như mơ với bạn, bạn là sự tồn tại. Thế thì bạn có thể nói, “Ta là Brahman.”
Đây là lời kinh sâu sắc thế. Không ai biết được bao nhiêu bí mật được hàm chứa bên trong nó. Phần còn lại là toàn bộ ngay cả khi cái toàn thể được lấy ra khỏi nó. Tâm niệm cả hai điều này - cái toàn thể còn lại, và cái toàn thể được lấy ra: nó đi toàn bộ, nó còn lại toàn bộ! Điều này nghĩa là gì? Nó có nghĩa là mọi cá nhân cũng là sự tồn tại, trong sự toàn bộ. Mỗi và mọi cá nhân, và mỗi và mọi nguyên tử, là sự tồn tại toàn bộ. Không phải là một nguyên tử là sự tồn tại bộ phận - không, nó là sự tồn tại trong toàn bộ. Bởi điều này không được biết tới trong số học thông thường của chúng ta, có hơi chút khó hiểu.
Nếu bạn đã hiểu rằng cái toàn thể đến từ cái toàn thể, và cái còn lại là cái toàn thể, thế thì tôi có thể nói thêm cho bạn. Cái toàn thể vô tận đến từ cái toàn thể, và dầu vậy cái còn lại là toàn thể. Nếu sau khi một cái toàn thể nổi lên, không có khả năng nào cho cái toàn thể khác xuất hiện, điều đó có nghĩa là một khiếm khuyết nào đó được gây ra bởi việc sinh thành nên cái toàn thể thứ nhất. Nhưng nếu, sau khi cái toàn thể thứ nhất nổi lên, cái toàn thể thứ hai xuất hiện, cũng nhiều như cái toàn thể này, và cái thứ ba cũng thế - nếu những cái toàn thể liên tiếp cứ nổi lên và dầu vậy bao giờ cũng có nhiều tiềm năng cho việc nổi lên của các cái toàn thể - thế thì cái còn lại quả thực là cái toàn thể.
Do đó không phải bạn là một phần của sự tồn tại; nói điều này là sai lầm. Bất kì ai nói bạn là một phần của sự tồn tại đều sai. Người đó nói về toán học thấp hơn. Người đó đang nói về cái thế giới mà hai cộng với hai là bốn. Người đó đang nói về thế giới của cân đong và đo đếm. Tôi bảo bạn, và Upanishad bảo bạn, và những người đã từng biết tới chân lí bảo bạn, rằng bạn là sự tồn tại trong toàn bộ. Điều này không có nghĩa là người hàng xóm của bạn không phải là sự tồn tại trong toàn bộ.
Không, sự kiện này không thể thay đổi được. Một bông hồng nở trên bụi cây - và việc nở hoa tới độ cao nhất; nhưng tính toàn bộ của việc nở hoa của nó không ngăn cản việc nở hoa của nụ hoa bên cạnh nó. Giúp đỡ và hợp tác trở thành có thể, nhưng chắc chắn không có cản trở. Một nghìn bông hồng có thể nở tới độ tròn trịa nhất: tính toàn bộ của sự tồn tại là tính toàn bộ vô tận. Từ tính toàn bộ vô tận này, các cái toàn thể vô tận có thể được sinh ra. Từng cá nhân đều là sự tồn tại trong toàn bộ. Từng nguyên tử đều là vũ trụ bao la này trong toàn bộ; không một chút xíu khác biệt nào giữa nó và cái toàn thể. Nếu có bất kì khác biệt nào thế thì nó không bao giờ có thể là cái toàn thể được, thế thì không có cách nào để làm nó thành cái toàn thể; và nếu nó sẽ trở thành cái toàn thể, thế thì nó là toàn thể ngay lúc này - chúng ta dốt nát về sự kiện đó. Khiếm khuyết này đơn giản là trong tri thức của chúng ta.
Lưu tâm tới lời kinh này trong những ngày sadhana của chúng ta - công việc chúng ta cùng nhau. Lặp lại cho bản thân bạn, “Cái toàn thể đến từ cái toàn thể, và cái còn lại là toàn thể. Khi cái toàn thể được hấp thu vào trong cái toàn thể, cái toàn thể vẫn còn là cái toàn thể.” Tất cả nó đều không tạo ra khác biệt nào! Nhớ điều này trong tâm trí, và cứ lẩm bẩm nó bên trong bạn với từng hơi thở của bạn. Mỗi ngày nhiều việc diễn giải của nó sẽ được khải lộ ra dưới nhiều dạng khác nhau và trong nhiều cách khác nhau. Giữ lời kinh này trong tâm trí, và khi chúng ta tiếp tục khám phá nó, cứ để đi sâu hơn mãi vào trong ý nghĩa của nó, và vào trong ghi nhớ của bạn về nó. Để những quá trình này cứ làm việc bên trong bạn. Trong bẩy ngày này có thể là vào bất kì lúc nào cái gì đó có thể xảy ra - bất thình lình lời kinh này có thể bật ra từ môi bạn, và bạn sẽ cảm thấy cái toàn thể đến từ cái toàn thể, và cái toàn thể còn lại. Cái toàn thể mất đi trong cái toàn thể và vậy mà cái toàn thể vẫn còn là cái toàn thể. Không có gì khác biệt gì cả. Tất cả những điều này xảy ra tựa một giấc mơ và thế mà chẳng cái gì thực sự xảy ra cả. Tất cả những điều này xảy ra tựa như mơ và vậy mà không cái gì thực sự xảy ra. Tất cả những điều này giống như đóng kịch, vậy mà cái toàn thể vẫn còn không bị quấy rối và không bị động chạm tới như bao giờ.
Nhớ lời kinh này nhiều nhất có thể được có thể sẽ có ích cho bạn. Cố sống theo tinh thần của nó hai mươi bốn giờ một ngày.
Bản chất của Upanishad không thể được hiểu thông qua một mình tâm trí; nó phải được lĩnh hội bằng việc sống nó. Kinh này không tuyên bố về lí thuyết; nó trình bầy sadhanas nào đó, những thực hành nào đó. Nó không chỉ bao gồm những kết luận tới được với sự giúp đỡ của tri thức; nó tuyên bố kinh nghiệm. Khi bạn sống với những kinh nghiệm này bên trong bản thân bạn - cho chúng sinh ra trong bản thân bạn, cho phép chúng đi vào máu, xương, thịt và các mô của bạn, cho phép chúng hội nhập vào trong hơi thở của bạn; khi bạn sống trong lắng nghe, nhớ và lẩm nhẩm về chúng trong lúc trải qua các việc thường ngày của bạn như thức, đứng, ngồi và ngủ - thế thì, và chỉ thế thì bí mật của chúng, những cánh cửa của chúng, bắt đầu mở ra cho bạn.
Bạn chỉ được trao cho lời công bố đầu tiên trong lời kinh này. Họ phải là những người rất xuất sắc đã nói, như họ đã làm, tất cả những cái có đó để được nói chỉ trong một lời kinh này. Nó đi tới đầu kết thúc tuyên bố sự lắng xuống của ba dạng đau đớn:
Om. Shanti, shanti, shanti.
Lời kinh này có thể có quan hệ gì với việc làm lắng xuống của nỗi đau ba lần này? Liệu khổ sở của bất kì ai có kết thúc được bằng cách tụng niệm công thức nào đó không? Không, nhưng hiền nhân này nói, “Om!” và điều đó kết thúc vấn đề. Liệu tất cả mọi khổ sở của bạn có hết không, liệu bạn có trở nên thoát khỏi chúng bằng việc tụng niệm lời kinh này không?
Nếu nó được tụng niệm trong tất cả sự chân thành, với đầy hiểu biết, điều ấy là có thể đấy. Nếu nó đơn thuần được đọc ra từ sách, điều ấy chẳng bao giờ có thể. Điều này là nói rằng nếu nó được tụng niệm với thái độ, “Mình đã đọc điều này rồi - Mình đã nghe điều này rồi,” thế thì không cái gì là có thể. Nhưng với những người đã nói, “Om!” bằng tất cả dũng cảm và bạo dạn của họ, mọi vấn đề xong rồi. Tất cả mọi khổ của người đã hiểu chân lí đều được chấm dứt. Tất cả ưu phiền của thân thể, tâm trí và linh hồn họ đều biến mất. Người như thế vượt ra ngoài ưu phiền.
Bạn nghĩ, “Phải có ý nghĩa nào đó khi ông ấy nói điều này với sự dễ dàng thế, tin tưởng thế.” Ý nghĩa là thế này: bất kì ai sống lời kinh này, bất kì ai cho sinh thành ra nó bên trong bản thân mình, sẽ kinh nghiệm bản thân mình thoát khỏi mọi ưu phiền, bởi vì chỉ có một loại ưu phiền, chỉ có một nỗi đau - dù đó là ở mức độ tâm trí, thể chất hay tâm linh; chỉ có một loại thôi, và đó là bản ngã. “Tôi đang làm điều này - điều này do tôi làm đấy,” là ưu phiền duy nhất, chướng ngại duy nhất. “Xúc phạm này nhằm vào tôi - tôi bị lăng mạ vậy ...” Tất cả những sự xảy ra này tích luỹ quanh cái tôi này. Nhưng khi một vũ trụ bao la như thế không tạo ra khác biệt gì với sự tồn tại, và để nó không bị động chạm tới, tôi có phải cho phép những điều tầm thường như vậy ảnh hưởng tới tôi không? Chẳng lẽ tôi không thể vẫn còn không bị đụng chạm được sao? Chẳng lẽ tôi không thể đứng sang bên và nói, “Xúc phạm này đã không được trao cho tôi” sao; và, “Bất kì điều gì tôi đã làm đều đã được làm rồi. Tôi đã không làm nó.” Nếu tôi trở thành nhân chứng cho những hành động xảy đến với tôi và tiến hành từ tôi - nếu tôi dừng là người làm - thế thì những bí mật kì diệu bắt đầu lộ ra.
Cho nên thử sống lời kinh này trong bẩy ngày này đi. Trong khi tôi đang nói về Ishavasya Upanishad bạn sẽ nghe kinh này được diễn giải từ nhiều góc độ khác nhau. Nếu bạn cố sống theo diễn giải tôi đã nêu ra hôm nay, hiều biết chắc chắn sẽ tới với bạn; không có điều ngược .
Đây là đủ về lời kinh. Bây giờ tôi sẽ nêu ra một số hướng dẫn liên quan tới thiền, vì sáng mai chúng ta sẽ bắt đầu thực hành thiền. Điều đầu tiên phải lưu tâm là trong cả ngày thở thật toàn bộ hết mức và, bất kì khi nào bạn nhớ ra, hít vào thật sâu hết mức. Thật nhiều ô xi! Năng lượng bạn giải phóng ra cho công việc của bạn sẽ tỉ lệ trực tiếp với việc lấy vào hơi thở của bạn. Rất nhiều năng lượng nằm ẩn trong thân thể bạn. Nó phải được khuấy động và kích hoạt hướng tới thiền; nó phải được chuyển kênh vào thiền. Cho nên lời kinh thiền đầu tiên tôi trao cho bạn là để kích hoạt năng lượng đó. Phương tiện gần nhất và dễ nhất có sẵn cho bạn là hoạt động thở của bạn.
Ngay khi bạn thức dậy vào buổi sáng và trở lại với ý thức, bắt đầu thở sâu, vẫn ngồi trên giường. Khi bạn bước đi dọc con đường, thở sâu nhất có thể được. Làm điều đó chậm rãi, đừng quá gắng sức mình, thoải mái và vui vẻ - nhưng nhớ, hơi thở của bạn phải sâu. Nhớ trong tâm vào mọi lúc rằng bạn sẽ dễ dàng đi vào trong thiền nếu bạn hít thật nhiều ô xi có thể được. Bạn càng có nhiều ô xi trong máu, trong tim, bạn sẽ thấy việc thiền của mình càng dễ hơn. Bạn càng tống ra nhiều các bô níc, thiền càng dễ dàng hơn cho bạn. Cái không thuần khiết giảm đi khi bạn làm tăng khối lượng ô xi trong thân thể mình. Điều thú vị là biết rằng tâm trí thấy nó khó vận hành nếu cơ sở của sự không thuần khiết của thân thể bị loại bỏ. Cơ hội cho ý nghĩ nảy nở trong tâm trí bạn sẽ ít đi khi bạn hấp thu nhiều không khí tươi mát; và như tôi đã bảo bạn, điều này sẽ làm tăng thêm tiềm năng cho lời kinh giống thế này nở bung và đâm hoa bên trong bạn.
Cho nên điều thứ nhất là: thật nhiều ô xi. Để có thừa thãi ô xi trong bạn đi. Nhớ điều này trong suốt bẩy ngày này. Hai hay ba điều sẽ xảy ra nếu bạn làm điều này, nhưng đừng sợ chúng. Khi bạn bắt đầu thở sâu, giấc ngủ của bạn sẽ ngắn hơn. Điều này không phải là cái gì đó phải lo âu. Khi giấc ngủ sâu và say, việc kéo dài của nó giảm đi, và khi bạn bắt đầu thở sâu hơn, chiều sâu của giấc ngủ của bạn cũng sẽ tăng lên. Đây là lí do tại sao những người làm việc vất vả về thể lực ngủ say thế trong đêm. Chiều sâu của giấc ngủ của bạn sẽ tăng lên tỉ lệ với chiều sâu của hơi thở của bạn, và khi chiều sâu giấc ngủ của bạn tăng lên, việc kéo dài của nó cũng sẽ giảm đi. Đừng lo lắng về điều này. Nếu bây giờ bạn ngủ bẩy tiếng, nó sẽ trở thành bốn hay năm tiếng. Đừng lo lắng về điều đó - bạn sẽ tỉnh dậy vào buổi sáng sảng khoái hơn, vui vẻ hơn và mạnh khoẻ hơn từ giấc ngủ năm tiếng này so với bạn vẫn thường tỉnh dậy sau khi ngủ tám tiếng. Cho nên khi giấc ngủ của bạn tới điểm kết thúc vào buổi sáng - và điều này sẽ bắt đầu xảy ra sớm hơn nếu bạn đã thở sâu - bạn nên dậy ngay lập tức. Đừng bỏ lỡ khoảnh khắc phúc lạc ấy của buổi sáng; dùng nó cho thiền.
Điểm thứ hai cần nhớ là ở chỗ bạn càng ăn ít thức ăn, và bữa ăn càng nhẹ, càng tốt hơn cho bạn. Giảm số lượng thật nhiều cho thoải mái nhất có thể được. Nhịp độ thiền của bạn sẽ càng nhanh chóng và dễ dàng hơn nếu bạn ăn càng ít đi. Tại sao có điều này? Có một số lí do có căn cứ cho nó đấy. Thân thể chúng ta có một số thói quen đã lắng đọng. Thiền không nằm trong số đó; nó là công việc mới cho thân thể. Thân thể có những liên kết cố định. Nếu thói quen đã thành hình của thân thể bị ngắt tại bất kì điểm nào, thế thì thân thể và tâm trí chúng ta có thể hình thành thói quen mới một cách dễ dàng. Giả sử bạn là người lo âu, và bắt đầu gãi đầu theo thói quen. Bây giờ nếu tay bạn bị buộc xuống vào lúc đó để cho bạn không thể gãi đầu được, thế thì bạn không thể còn bị lo âu. Điều này rất thách đố. Bạn có thể hỏi, “Cái gì là mối quan hệ giữa lo âu và gãi?” Câu trả lời là thói quen. Thân thể giữ thói quen của nó một cách bền vững và vận hành qua chúng.
Ăn là thói quen được bắt rễ sâu nhất của thân thể; nó là sâu nhất bởi vì không thể có cuộc sống nếu không có nó. Nhớ điều đó trong tâm trí, nó mạnh mẽ hơn và có uy lực hơn dục. Trong mọi thói quen bắt rễ sâu của cuộc sống, thói quen ăn uống là sâu nhất. Nó bắt đầu từ ngày đầu của cuộc đời và tiếp diễn cho đến ngày cuối cùng. Chính sự tồn tại của cuộc sống, bản thân thân thể, phụ thuộc vào nó.
Cho nên, nếu bạn muốn thay đổi thói quen của tâm trí và thân thể bạn, thế thì làm yếu đi cái thói quen sâu xa nhất này ngay lập tức. Ngay khi bạn làm điều này, mọi lề thói và cách bố trí thể chất cố định của thân thể bạn sẽ bị khuấy động, và bạn sẽ thấy dễ dàng hơn để đi vào những miền mới, và đi vào những tầm hướng mới với thân thể bạn trong hoàn cảnh đã khuấy động này; bằng không bạn sẽ thấy càng khó khăn hơn. Cho nên tự bản thân bạn cam kết nhiều nhất có thể được theo chiều hướng này đi. Bạn có thể chọn nhịn ăn, hay có lẽ ăn một bữa một ngày. Làm như bạn chọn; không cần qui tắc. Một cách yên tĩnh, và với nhịp độ của bạn, đi theo con đường dễ dàng nhất cho bạn.
Điểm thứ ba là tập trung. Bạn phải thở sâu hai mươi bốn giờ một ngày, và đồng thời nhận biết về việc thở của bạn. Chú ý tới việc thở của bạn, và tập trung sẽ dễ dàng xảy ra. Khi bước đi, đem nhận biết vào việc bước, đem nhận biết vào khi tắm. Tập trung có thể dễ dàng được đạt tới - ngay cả khi bước đi trên đường. Theo cách này: hít vào, bạn quan sát rằng hơi thở từ bên ngoài đi vào bên trong - chăm chú! Giữ việc quan sát hít vào cũng quan sát cả việc thở ra của mình. Nếu bạn chăm chú bạn cũng sẽ có thể thở sâu. Nếu bạn không chăm chú bạn sẽ quên quan sát, và quá trình thở của bạn sẽ trở thành nông. Nếu bạn cứ thở sâu bạn sẽ có khả năng vẫn còn chăm chú vì bạn sẽ phải chăm chú để làm việc thở sâu. Cho nên kết hợp thiền với thở. Khi bạn đang làm việc gì đấy, nếu bạn cảm thấy việc ấy không thể giữ được chú ý của bạn vào việc thở, thế thì giữ tập trung của bạn vào nhiệm vụ của bạn. Chẳng hạn, khi bạn đang ăn thức ăn, tập trung đầy đủ vào hành động ăn. Lấy mọi miếng nhai với tập trung đầy đủ. Khi bạn đang tắm, tập trung vào nước đang phun lên người bạn. Khi bước trên đường, tập trung vào từng bước bạn đi.
Chìm ngập bản thân bạn vào tập trung trong hai mươi bốn giờ một ngày trong bẩy ngày này. Việc thiền chúng ta sẽ thực hiện ở đây là hoàn toàn tách biệt, nhưng tôi đang giải thích cho bạn về nền tảng của điều bạn cần phải làm trong thời gian còn lại. Cho nên thực hành ba điểm này: thật chăm chú, thật tập trung - và đặc biệt vào việc thở của bạn, vì việc thở là quá trình không dừng, hai mươi bốn tiếng một ngày. Không ai có thể cứ ăn hay bơi hay bước liên tục hai mươi bốn tiếng, nhưng thở tiếp diễn không dừng, cho nên việc tập trung có thể được thực hành trên nó vào mọi lúc. Tập trung vào nó! Quên đi rằng có cái khác đang diễn ra trên thế giới. Sống dường như chỉ một điều đang xảy ra trên toàn bộ thế giới này, và đó là việc thở vào và việc thở ra. Thế là đủ; đi theo quá trình thở đi vào và ra giống như chuỗi hạt. Bạn tập trung chỉ vào điều này.
Điểm thứ tư là tước đi cảm giác. Ba điều cần phải được làm. Nếu bạn cảm thấy có khả năng giữ im lặng trong cả ngày, thế thì bắt đầu ngay đi; và nếu bạn thấy điều này là khó, thế thì thật vắn tắt trong việc nói của bạn. Hiểu rằng bạn đang phải trả giá cho từng lời bạn nói. Cho nên đừng nói quá hai mươi từ trong cả ngày. Chỉ nói khi tuyệt đối cần thiết, khi không thể tránh được - giống như vấn đề sống và chết! Bạn không thể tưởng tượng nổi sẽ ích lợi thế nào cho bạn để giữ im lặng toàn bộ - giá trị của nó không thể tính nổi.
Cho nên để cho bản thân bạn là im lặng toàn bộ; bạn sẽ không thấy điều ấy là khó. Để một tờ giấy và bút chì cạnh mình và nếu bạn thấy tuyệt đối bản chất, viết ra thông điệp của bạn rồi chỉ nó cho ai đó. Vẫn còn hoàn toàn im lặng. Năng lượng này sẽ giúp bạn đi sâu hơn vào thiền. Quá nửa năng lượng của con người bị tiêu tốn bởi lời nói. Cho nên dừng việc dùng lời hoàn toàn đi. Với năng lực cao nhất của bạn, gìn giữ im lặng; và hết sức chú ý đừng làm tan vỡ im lặng của người khác. Nếu im lặng của bạn bị tan vỡ, đấy là điều không may của bạn, đấy là trách nhiệm riêng của bạn; nhưng thấy rằng bạn không làm tan vỡ im lặng của bất kì ai. Đừng hỏi bất kì ai những câu hỏi vô dụng, đừng đưa ra những yêu cầu không cần thiết, đừng nêu ra những câu hỏi vô dụng, đừng cố kéo bất kì ai vào đối thoại. Hợp tác và giúp đỡ người khác giữ im lặng. Nếu ai đó hỏi một câu hỏi, ra hiệu cho người đó giữ im lặng. Người đó cần được nhắc nhở.
Gạt việc nói sang bên tuyệt đối trong bẩy ngày. Bạn đã nói quá nhiều cho tới hôm nay, và bạn sẽ làm như thế trong thời gian bẩy ngày. Nhưng trong một tuần này, bỏ việc nói hoàn toàn đi. Mọi người phải cố gắng hết sức. Nếu bạn có thể duy trì im lặng trong cả bẩy ngày điều đó sẽ giúp bạn cực kì lớn, và bạn sẽ chẳng cần phải xin lỗi, “Tôi không thể thiền được.” Nếu bạn tuân theo năm hướng dẫn tôi đang trao cho bạn, bạn sẽ chẳng có lí do nào để phàn nàn. Nếu bạn tạo ra vấn đề bởi việc bỏ qua những điểm này, chỉ bạn chịu trách nhiệm. Cho nên giữ im lặng toàn bộ, và nếu bạn không thể làm được điều này - nếu bạn yếu đuối, nếu bạn thiếu quyết tâm, nếu thông minh của bạn không đủ mạnh - thế thì ít nói đến mức có thể được đi. Nếu bạn còn có thông minh nào đó, sức mạnh ý chí nào đó, sức mạnh nào đó, tự tin nào đó, thế thì giữ im lặng toàn bộ.
Im lặng là điều bản chất đầu tiên của chương trình loại bỏ giác quan. Điều thứ hai là bịt mắt . Bạn làm một khăn bịt mắt và bắt đầu dùng nó từ sáng mai. Mắt bạn phải hoàn toàn bị che kín. Mắt là cánh cửa qua đó bạn đi ra. Bạn càng giữ cho chúng đóng điều đó càng tốt hơn cho bạn. Ngay cả khi bạn chỉ ngồi đấy, đeo cái che mắt lên, vì thế thì bạn sẽ không thấy người khác, và cơ hội cho đối thoại sẽ không nảy sinh; và khi thấy bạn bị che mắt, người khác sẽ không thử quấy rối bạn một cách không cần thiết. Cho nên che mắt đi. Bạn đã nghe nói về giữ im lặng; bây giờ tôi yêu cầu bạn phải bịt mù nữa.
Im lặng là một loại giải thoát và bịt mù là giải thoát lớn hơn và sâu hơn, vì chính mắt làm cho chúng ta chạy ra ngoài cả ngày. Bằng việc nhắm mắt, bạn sẽ có ít phạm vi đi ra ngoài nhiều hơn, và năng lượng sẽ bắt đầu luân chuyển bên trong. Cho nên bạn giữ cho mắt được bịt kín. Trong khi bước đi nâng nó lên một chút, đủ để nhìn xuống, đủ để thấy mặt đường quãng một mét hai phía trước bạn. Để cái bịt mắt trong cả ngày. Nếu bạn có thể ngủ mà vẫn đeo nó trong đêm, cứ đeo. Chỉ cởi nó ra nếu bạn thấy bất tiện. Nếu bạn ngủ vẫn đeo nó, sẽ có khác biệt trong việc ngủ ngon giấc của bạn. Bạn cứ giữ nó trong thời gian bạn còn lại ở đây. Khi chúng ta gặp nhau ở đây cho buổi thiền sáng, miếng che mắt phải vẫn còn đeo. Cởi nó ra cho buổi thiền chiều, nhưng vẫn giữ nó cho tới khi bạn tới được nền tảng của thiền. Vào đêm bạn cũng phải đeo khăn che mắt đó. Một lần ở đây, bỏ nó ra trong thời gian thiền đêm.
Cho nên, khi tôi bắt đầu nói vào buổi sáng, bỏ khăn che mắt của bạn ra, và bỏ cả trong buổi thiền chiều và đêm. Tôi đang trao cho bạn những cơ hội này để dùng mắt bạn vì có cơ hội nào đó để thấy thế giới bên ngoài có thể giúp cho mắt bạn quay vào bên trong; bằng không giữ mắt bạn nhắm lại. Bạn sẽ ngạc nhiên biết bao nhiêu căng thẳng tâm trí biến mất khi mắt bạn được giữ nhắm lại. Rất nhiều căng thẳng tâm trí đi vào qua mắt, và chính căng thẳng mắt gây ra căng thẳng trong mô não. Nếu mắt vẫn còn không bị quấy rối, bình thản và thảnh thơi, chín mươi chín phần trăm bệnh tật tâm trí sẽ biến mất. Cho nên có ý thức và dùng đầy đủ phương tiện này.
Không có vấn đề về bất kì ai được miễn thứ hay miễn trừ; nếu bạn cố gắng tránh nó, tôi không phải là người mất mà bạn là người mất. Nhớ trong tâm rằng bạn phải vẫn còn mù trong phần lớn thời gian. Bạn phải cho mắt bạn kì nghỉ một tuần; tưởng tượng rằng bạn không có mắt chút nào. Sau bẩy ngày bạn sẽ nhận ra mắt bạn có thể được thảnh thơi và bình lặng đến đâu. Bạn sẽ không bao giờ tưởng tượng được rằng nhiều vui đến thế có thể tuôn chảy ra từ thảnh thơi của chúng này. Nhưng nếu trong những ngày này bạn chọn tự lừa dối mình, thế thì tôi không chịu trách nhiệm. Tất cả đều phụ thuộc vào bạn. Không ai có trách nhiệm cho bất kì ai khác ở đây cả. Bạn có thể tự lừa dối mình hay không, tuỳ bạn thôi.
Cũng như vải che mắt, lấy miếng bông nút vào lỗ tai. Chúng ta muốn cho tai nghỉ ngơi nữa. Nếu mắt, tai và miệng đều đóng và được nghỉ ngơi, kết quả là một hoàn cảnh cho việc mất giác quan. Nút bông vào tai, thế rồi buộc chặt khăn che vào mắt. Theo cách đó những người khác, nếu muốn, không thể quấy rầy bạn trong im lặng của bạn. Nếu tai bạn để mở ai đó có thể định nói với bạn. Sẽ không có cám dỗ nào nếu tai bạn bị nút kín. Bạn để mở tai chỉ khi tôi nói ở đây vào buổi sáng, và ban đêm khi bạn đi ngủ. Giữ mắt mở và tai nút kín trong các buổi thiền chiều và đêm.
Hướng dẫn thứ năm và cuối cùng là điều kiện quan trọng nhất và bản chất nhất của tất cả. Nó là thế này: chỉ những người nào đang nhảy múa và cười trong đầy vui và phấn khởi mới vào ngôi đền của sự tồn tại. Không người khóc nào đến được lối vào ở đó. Cho nên vứt bỏ ưu tư và phiền muộn của bạn trong bẩy ngày này. Phúc lạc đi! Cười, nhảy múa và vẫn còn vui vẻ. Để phúc lạc có với bạn trong mọi lúc. Vẫn còn phấn khởi và vui vẻ ngay trong việc thường lệ của bạn. Phúc lạc trong khi ngồi hay bước - say sưa với âm nhạc, điên lên với vui! Khi bạn đang bước, đừng bước như mọi người vẫn thường bước; bước như người tìm kiếm, như một sadhu bước, với vũ điệu trong bước chân bạn. Đừng lo nghĩ về điều người khác có thể nói. Chúng ta tới đây là để được tự do với mọi phê phán của người khác. Tệ nhất người khác có thể cho là bạn gàn dở, người trên cung trăng. Vậy chấp nhận tình huống ấy ngay từ đầu đi; đây là điều xấu nhất có thể xảy ra. Cố tạo ra bầu không khí phúc lạc và vui vẻ cho toàn bộ trại.
Giữ im lặng - im lặng rạng ngời với vui mừng và khoan khoái, im lặng nhảy múa trong nô giỡn và hớn hở; im lặng ở bên ngoài, và năng lượng nhảy múa bên trong. Trong vui mừng của bạn, nhảy múa và cười đùa. Nếu bạn cảm thấy phải nhảy múa thậm chí trong phiên thiền im lặng buổi chiều, bạn có thể làm như vậy. Tràn đầy vui vẻ và hạnh phúc ngay cả trong phiên thiền buổi sáng ở đây. Nếu bạn muốn, nếu bạn cảm thấy thích nó, thậm chí trong thiền cũng có thể nhảy, múa và cười được. Nếu bạn khóc, để cho việc khóc đó là kết quả của vui vẻ của bạn. Để cho nước mắt bạn giúp cho phúc lạc của bạn tuôn chảy. Nhớ tất cả những điều này trong tâm trí. Nếu bạn muốn đung đưa, thế thì đung đưa. Nếu bạn muốn nhảy múa trong buổi thiền đêm, thế thì nhảy múa. Nếu bạn muốn nhún nhảy ra trước ra sau, làm điều đó. Nếu bạn muốn cười, thế thì cười. Rung động của vui vẻ bao giờ cũng nên có cùng với bạn.
Năm điều này là để thực hành từ sáng mai. Cho nên thu xếp từ bây giờ để có khăn bịt mắt và bông nút tai. Đến lúc mặt trời lên sáng mai bạn sẽ không là cùng con người đã đến đây hôm nay nữa. Đây là trông đợi của tôi. Làm điều tôi đã nói, và nếu bạn hoàn thành trông đợi của tôi, chẳng cái gì có thể ngăn cản bạn có khả năng nói, “Om. Shanti, shanti, shanti! - an bình, an bình, an bình!” khi bạn khởi hành từ đây. Nếu, khi bạn rời khỏi đây, trái tim bạn có thể thốt ra những lời này, thế thì không có khó khăn gì với bạn cả.
Xem tiếp Chương 2 - Quay về Mục lục

Ads Belove Post