Chương 3. Thiền yêu cầu dũng cảm

Chương 3. Thiền yêu cầu dũng cảm

Price:

Read more

Dhammapada - Con đường của Phật (Tập 10)
Chương 3. Thiền yêu cầu dũng cảm

Không phải sắt cầm tù ông
Không phải dây thừng không phải gỗ,
mà hoan lạc ông nhận trong vàng và đá quí, trong con và vợ.
Cái mềm trói buộc,
vậy mà chúng kìm ông xuống.
Ông có thể chộp chúng được không?
Có những người có thể chộp, người buông xuôi thế giới,
vì ham muốn, và đi theo đạo.
và hôm nay.
Đi ngang qua bến bờ xa hơn, bên ngoài sống và chết.
Ý nghĩ có gây rắc rối cho ông không?
Đam mê có quấy nhiễu ông không?
Cẩn thận về những khao khát này
Sợ rằng ước muốn của ông trở thành ham muốn và ham muốn làm mù ông.
Thông điệp nền tảng nhất của Phật Gautama là không có Thượng đế, không có linh hồn... đó là tự do: tự do tuyệt đối, toàn bộ, vô điều kiện. Ông ấy không muốn cho bạn ý thức hệ, bởi vì mọi ý thức hệ đều tạo ra sự nô lệ của riêng nó. Ông ấy không muốn cho bạn tôn giáo, bởi vì tôn giáo trói buộc bạn. Đó đích xác là nghĩa tiếng Anh của từ 'tôn giáo' - điều trói buộc bạn lại. Tôn giáo là tù túng, rất tinh vi, tinh vi tới mức chừng nào bạn còn chưa rất nhận biết bạn sẽ không có khả năng thấy điều đó. Ông ấy không muốn cho bạn triết lí về cuộc sống, bởi vì bất kì triết lí nào được ai đó khác trao cho bạn đều sẽ giam cầm bạn. Bạn phải sống tương ứng theo ánh sáng riêng của mình, không theo ánh sáng của ai đó khác.
Toàn thế giới đầy những nô lệ bởi lẽ đơn giản là mọi Phật nói: Hãy là ánh sáng lên chính mình. Chừng nào bạn còn chưa tạo ra ánh sáng bên trong bản thể mình bạn sẽ vẫn còn là nô lệ, bạn sẽ bị chi phối. Và có những tu sĩ xảo quyệt, tinh ranh, rất láu cá, rất phàm tục; và họ biết, họ rất có kinh nghiệm trong việc tạo ra tù túng mới cho bạn. Nếu bạn thoát khỏi nhà tù này, họ lập tức tạo ra nhà tù khác. Họ rất láu cá với lời. Họ cứ diễn giải lời nói theo cách tinh vi mà bạn sẽ không bao giờ có khả năng hiểu được, làm sao những lời này của chư phật lại bị thao túng, bóp méo. Lời đáng được ngụ ý cho bạn tự do đã bị làm thành xiềng xích.
Nhưng con người rất vô nhận biết; do đó con người cứ còn là nạn nhân - nạn nhân của đủ mọi loại khai thác tâm lí.
Phật dạy bạn tự do là mục đích tối thượng, summum bonum, điều tốt lành nhất. Mọi giá trị khác đều là sản phẩm phụ của tự do; chúng theo sau tự do như hậu quả.
Jesus nói: Trước hết ông hãy tìm vương quốc của Thượng đế, thế rồi tất cả các cái khác sẽ được thêm vào cho ông. Phật sẽ không nói điều đó. Ông ấy sẽ nói: Trước hết ông hãy toàn bộ và tự do tuyệt đối, và thế rồi tất cả các thứ khác sẽ được thêm vào ông. Nếu ông tìm Thượng đế ông lại đi tìm nhà tù mới, có thể tốt hơn nhà tù cũ, có thể bằng vàng, rất quí - nhưng nhà tù vẫn là nhà tù thôi. Dù xiềng xích của bạn được làm bằng sắt hay vàng, điều đó chẳng tạo ra khác biệt chút nào. Thực tế, nếu xiềng xích được làm bằng vàng thì sẽ khó thoát khỏi chúng hơn nhiều bởi vì bạn sẽ trở nên bị gắn bó. Bạn sẽ nghĩ xiềng xích đó không phải là xiềng xích mà là đồ trang sức. Bạn sẽ bảo vệ chúng, bạn sẽ canh giữ chúng - ai đó có thể đánh cắp chúng từ bạn!
Tự do là hương thơm của toàn thể thông điệp của Phật. Không người chứng ngộ nào khác đã từng nhấn mạnh tới tự do nhiều như vậy. Tại sao Phật nhấn mạnh vào tự do nhiều thế? - bởi lẽ đơn giản là ông ấy đã thấy tất cả các lí tưởng khác đều bị đổi thành tù túng. Ông ấy đã thấy tất cả những triết lí đẹp đẽ đều bị các tu sĩ đầu độc. Cảnh giác với tu sĩ!
Phật không phải là tu sĩ, mà Jesus cũng không, Mahavira cũng không. Không người chứng ngộ nào là tu sĩ cả. Tu sĩ sống theo lời của người chứng ngộ và khai thác những người chưa chứng ngộ. Ông ta chắc chắn láu cá nhưng không khôn ngoan, thông thái nhưng không chứng ngộ. Ông ta thành công trong thao túng bạn bởi vì bạn vô ý thức.
Do đó, điều thứ hai Phật nhấn mạnh là thiền, nhận biết. Tự do có thể tới chỉ qua việc ngày càng nhiều nhận biết hơn. Với tự do ông ấy không ngụ ý hiện tượng xã hội nào hay thay đổi chính trị nào. Có những người... Tôi đã bắt gặp những cuốn sách do người cộng sản, người Mác xít, người xã hội viết ra, những người cố gắng chứng minh rằng tự do của Phật nghĩa là chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, rằng tự do của ông ấy nghĩa là cách mạng xã hội, cách mạng chính trị. Điều đó là hoàn toàn vô nghĩa! Phật chẳng liên quan gì tới thế giới bên ngoài; mối quan tâm của ông ấy là nội tâm của bạn. Ông ấy muốn thay đổi vô ý thức của bạn thành có ý thức, ông ấy muốn thay đổi bóng tối của bạn thành ánh sáng, ông ấy muốn thay đổi hữu tử của bạn thành cái bất tử.
Ông ấy thực sự làm công việc của nhà tiên tri của Upanishads người đã cầu nguyện Thượng đế, "asato ma sadgamay. Hỡi Thượng đế, hỡi Trời, xin đem chúng con xa khỏi cái giả dối, khỏi cái không thật, để tới chân lí, tamaso ma jyotirgamay. Hỡi Thượng đế, hỡi Trời, hãy đưa chúng con xa khỏi bóng tối vào trong ánh sáng. Mrityor ma amritamgamay. Hỡi Thượng đế, hỡi Trời, hãy đưa chúng con xa khỏi cái chết tới cuộc sống vĩnh hằng." Nhưng họ đã cầu nguyện Thượng đế.
Phật nói: Không lời cầu nguyện nào sẽ có ích. Chừng nào bạn còn chưa làm điều gì đó, lời cầu nguyện của bạn là bất lực. Không cần cầu nguyện, nhưng có nhu cầu lớn để thiền. Tôn giáo của ông ấy không phải là tôn giáo của lời cầu nguyện. Tôn giáo của ông ấy là rất khoa học theo nghĩa ông ấy không giả định bất kì niềm tin nào. Bạn không cần tin vào Thượng đế, bạn không cần tin vào kiếp sau. Ông ấy nói khi bạn có thể kinh nghiệm, thế thì sao lại tin? Mọi niềm tin chung cuộc đều thu bạn thành nô lệ.
Phật chống lại mọi loại tin và không tin. Ông ấy là người theo thuyết bất khả tri. Ông ấy nói cứ còn cởi mở đi; nếu bạn tin bạn trở nên bị đóng. Người Hindu bị đóng, người Mô ha mét giáo bị đóng, người Ki tô giáo bị đóng: họ đã kết luận rồi. Họ đã chấp nhận niềm tin nào đó là đúng mà không kinh nghiệm nó. Đây là không trung thực! Và những người này được coi là người tôn giáo đấy. Họ thậm chí không đích thực, họ thậm chí không thật thà - nói gì về tính tôn giáo của họ? Từ chính lúc ban đầu họ đã không trung thực rồi; đức tin làm cho bạn thành không trung thực.
Chính quá trình tin là tin vào cái gì đó mà bạn đã không kinh nghiệm theo cách riêng của mình. Làm sao bạn có thể tin được nếu bạn chân thành? Nếu việc tìm kiếm chân lí của bạn là đích thực bạn không thể tin được; bạn không thể không tin được nữa. Bạn không thể nói có Thượng đế, bạn không thể nói không có Thượng đế. Bạn chỉ có thể nói, "Tôi không biết và tôi đang tìm và tôi đang kiếm và tôi đang kinh nghiệm và tôi đang thử kinh nghiệm."
Đó là cách thức của thiền.
Lời cầu nguyện yêu cầu tin như một giả định trước; không có tin thì không có khả năng nào cho lời cầu nguyện. Bạn sẽ cầu nguyện ai? Bạn sẽ gửi lời cầu nguyện của mình tới ai? - tới Thượng đế nào đó mà bạn đã chấp nhận bởi vì điều đó đã được bảo cho bạn từ thời ấu thơ, bạn đã bị thôi miên.
Mọi niềm tin đều không là gì ngoài thôi miên. Người này bị thôi miên là người Hindu, người kia bị thôi miên là người Mô ha mét giáo; cả hai đều sống trong một loại giấc ngủ say. Thôi miên nghĩa là ngủ; chính từ này nghĩa là ngủ. Bạn đã bị cho nhiều chất độc thế, dần dần, dần dần qua niềm tin mà bạn đã rơi vào giấc ngủ. Bạn không còn nhận biết điều mình đang làm, tại sao mình làm. Tại sao bạn đi đến đền chùa? Tại sao bạn cúi lạy tượng đá? Tại sao bạn trích dẫn cái gì đó vô nghĩa? Tại sao bạn đi tới Kaaba hay Kashi hay Girnar? Để làm gì? Có cái gì đó tiên nghiệm. Bạn đã tin vào điều tôn giáo là gì, mà không kinh nghiệm, không truy tìm.
Đây là cách thức của kẻ hèn nhát, đây là cách thức của người sống dở chết dở.
Thiền yêu cầu dũng cảm. Nó yêu cầu tính toàn vẹn, chân thành, kính trọng với bản thể riêng của bạn. Ít nhất đừng tự lừa dối mình.
Phật nói: Để kinh nghiệm của ông quyết định. Nếu điều này được hiểu bạn nhất định đi tới thiền thay vì lời cầu nguyện. Thế thì thiền sẽ đem lại lời cầu nguyện của riêng nó - tính cầu nguyện thì đúng hơn. Bạn sẽ không cầu nguyện nhưng bạn sẽ trong lời cầu nguyện, bởi vì bạn càng trở nên im lặng hơn, bạn sẽ càng trở nên tĩnh lặng hơn. Bạn càng kinh nghiệm sự hiện diện, sự hiện diện bí ẩn càng tràn ngập mọi thứ, thấm vào mọi thứ. Bạn có thể thích gọi nó là Thượng đế, bạn có thể không thích gọi nó là Thượng đế; chẳng thành vấn đề bạn gọi nó là gì. Bạn có thể không thích gọi nó là cái gì cả; bạn có thể im lặng về nó, bởi vì đó là thứ thích hợp nhất để làm. Nó không thể được đặt vào lời nào; không lời nào là đủ thích hợp để diễn đạt nó.
Nhưng Phật đã không được ai nghe. Nhân loại vẫn còn trong cách cũ kĩ của nó, như người sống dở chết dở, theo cách ngủ. Nó vẫn còn bị thôi miên, vô ý thức.
Howard Rabinowitz, một anh chàng thanh niên lực lưỡng, như đá granit, cực kì hung hăng, đang uống rượu whisky trong quán rượu thì anh ta nghe công bố về cuộc chiến sáu ngày qua radio. Tràn đầy xúc động và lên cơn sốt Do Thái, anh ta chạy xô ra sân bay và đáp chuyến bay đầu tiên tới Israel nơi anh ta lập tức gia nhập quân đội.
Nhưng sự đón tiếp anh ta tại căn cứ quân sự lại khá lạnh nhạt. Anh ta không đích xác bị lính Israel né tránh, nhưng họ cũng không làm theo cách của họ để đón chào anh ta.
"Nghe đây, có chuyện gì với người của ông thế?" anh ta phàn nàn với viên trung sĩ. "Tôi từ nửa vòng thế giới tới đây để giúp các anh và tôi thực tế bị bỏ qua. Một người Mĩ phải làm gì để được chấp nhận vào quân đội này?"
Viên trung sĩ dướn mắt nhìn anh thanh niên cơ bắp cuồn cuộn, bằng cách nào đó lén lút đưa mắt nhìn để cho anh ta không thể bị nghe lỏm, và thế rồi, trong giọng gần như thì thầm, anh ta nói, "Bí mật và không được ghi chép gì, nếu anh thực sự muốn là người của chúng tôi, có ba điều anh phải làm."
"Anh nói tên chúng ra đi," Rabinowitz nói.
"Thứ nhất," viên trung sĩ giải thích, "Anh phải uống hết một phần tư cốc rượu mạnh nhất mà không dừng hơi để thở. Thứ hai, anh phải giết một sĩ quan quân đội A rập. Thứ ba, anh phải làm tình với một người đẹp Israel."
Thế là Howard Rabinowitz nốc một hơi hết cả cốc phần tư lít rượu Mount Carmel không dừng giữa chừng.
"Bây giờ,"anh ta hỏi, "tôi có thể kiếm đâu ra viên sĩ quan A rập?"
"Ngang qua kênh đào Suez ấy," viên trung sĩ nói. "Tôi sợ anh sẽ phải bơi hai lần - tức là nếu anh vẫn còn sống."
"Tôi sẽ sống mà," người Mĩ hứa và anh ta lảo đảo bước đi. "Đồ chết tiệt, tôi là người to lớn nhất, hung bạo nhất, thô bạo nhất ở bờ Đông. Cuộc phiêu lưu nhỏ này thấm gì?"
Vài giờ sau anh ta quay về, ướt đẫm từ việc bơi trở về, quần áo rách mướp còn mặt anh ta bị trầy xước và chảy máu.
"Được rồi, tôi chăm nom tay sĩ quan A rập kia," anh ta gầm lên. "Bây giờ, người đẹp Israel ông muốn giết ở đâu?"
Đó đích xác là tình huống của nhân loại. Bạn không biết mình là ai, bạn không biết mình đang làm gì, bạn không biết tại sao mình làm nó ngay chỗ đầu tiên. Bạn không biết, cho dù bạn thành công, vấn đề tất cả là gì. Nhưng dầu vậy bạn cứ làm cái gì đó. Nó giữ bạn bị giam cầm và giữ bạn vô nhận biết về tính vô nhận biết của mình.
Mọi nghề nghiệp của bạn về căn bản không là gì ngoài nỗ lực để vẫn còn vô nhận biết về tính vô nhận biết của bạn - bởi vì điều đó gây động chạm tự ái. Sẽ là bị động chạm khi biết rằng "Mình là kẻ sống dở chết dở," bị động chạm khi biết rằng "Mình là kẻ nô lệ." Cho nên bạn cứ ba hoa về sự nô lệ của mình cứ dường như nó là cái gì đó rất quí và có giá trị. Bạn cứ ba hoa về việc là người Ấn Độ hay người Pakistan hay người Israel hay người Đức hay người Mĩ. Bạn cứ ba hoa về việc là người Hindu, người Mô ha mét giáo, người Ki tô giáo, người Jaina giáo - và bạn không biết bạn đang ba hoa về nhà tù của mình!
Cứ dường như hai tù nhân đang nói: "Nhà tù của tôi tốt hơn nhà tù của ông. Nhìn cờ kia kìa! Nhà tù của tôi có cờ tốt nhất trên thế giới, cột cờ cao nhất. Và chớ có nói lời nào chống lại nhà tù của tôi đấy; bằng không ông sẽ khổ vì điều đó, ông sẽ phải trả giá cho điều đó."
Quốc gia của tôi, đất nước của tôi, nhà thờ của tôi, tôn giáo của tôi cao hơn tôn giáo của ông, cao hơn nhà thờ của ông, cao hơn quốc gia của ông - và chúng ta đều đang ba hoa về nhà tù của mình. Điều này hoàn toàn ngu xuẩn. Nhưng sao chúng ta cứ làm nó? - bởi vì đó là cách duy nhất để giữ thể diện của chúng ta.
Nếu chúng ta thử để thấy ra vấn đề, rằng tất cả những điều này đều là nhà tù, làm sao chúng ta có thể tránh việc biết rằng chúng ta là tù nhân - không phải một mà là nhiều nhà tù, nhà tù bên trong nhà tù? Và điều đó sẽ phá huỷ bản ngã của chúng ta. Nó giúp cho bản ngã chúng ta rất nhiều là "Chúng ta là quốc gia vĩ đại," rằng "Lịch sử của chúng đầy những dũng cảm," rằng "Chúng ta đã tạo ra những chiến binh vĩ đại nhất"... hay những thánh nhân vĩ đại nhất, hay bất kì cái gì có đó. "Chúng ta đã tạo ra xã hội tôn giáo nhất trên thế giới," hay xã hội dân chủ nhất hay xã hội cộng sản nhất. Điều này giúp chúng ta bảo vệ bản ngã của mình. Chúng ta thấy theo đủ mọi cách các phương pháp và phương tiện, phương cách và chiến lược để cho bản ngã chúng ta vẫn còn không bị động chạm.
Và bản ngã là hiện tượng giả tạo nhất trong sự tồn tại; không có gì giả tạo hơn bản ngã. Nó không có bản chất. Nó là quả bóng đầy khí nóng - hay có thể chẳng có bóng nào cả, chỉ khí nóng thôi! Nhưng chúng ta đang sống theo chỉ đạo của thượng đế giả này, bản ngã. Và có các tu sĩ giúp chúng ta, người cho chúng ta những chiến lược mới, cách diễn giải mới. Khi thời gian thay đổi, các tu sĩ sẵn sàng cho chúng ta cách diễn giải mới.
Một đứa bé trong trường ngày chủ nhật ngẩn người ra khi linh mục nói rằng Thượng đế làm ra mọi thứ. Đứa trẻ trông ngẩn ra, gần như một câu hỏi trong mắt nó.
Linh mục hỏi nó, "Có chuyện gì thế, Johnny? Con trông ngẩn người ra."
Johnny nói, "Dạ vâng. Bác nói mọi thứ - bác có thực ngụ ý mọi thứ không? Thế thì đâu là tài liệu tham khảo rằng Thượng đế đã làm ra đường ray tầu hoả? Con chưa bao giờ bắt gặp điều đó."
Và linh mục nói, "Đúng rồi, con phải đã bỏ qua điều đó. Có sách than khảo đấy. Trong Kinh Thánh có nói rằng Thượng đế làm ra mọi thứ dần dần; kể cả đường ray tầu hoả nữa!"
Và không chỉ có việc họ đang lừa trẻ nhỏ đâu; họ làm cùng điều đó với bạn đấy.
"Giáo sĩ ơi," người cha lo âu nói, "tôi mong ông sẽ nói cho con trai tôi. Nó đây này, tuổi mười ba, và mọi thứ nó nghĩ tới chỉ toàn về bóng chày."
Giáo sĩ thở dài với bản thân mình. "Với bao nhiêu đứa trẻ phạm tội lâm vào rắc rối," ông ta nghĩ, "đây quả thực là vấn đề nhỏ."
"Tôi tiếc là làm cho ông thất vọng," ông ta nói, vừa kìm lại ham muốn bầy tỏ bực mình của mình, "nhưng tôi không thể trách móc con ông về điều gì đó mà chúng ta người Do Thái đã từng thực hành trong hàng nghìn năm rồi. Thực tế, có nhiều tham chiếu tới bóng chày trong Kinh Thánh."
"Ông có nghiêm chỉnh không đấy?" người cha hỏi một cách hoài nghi. "Chúng là gì?"
"Đây này, chẳng hạn, ông sẽ nhớ ngay rằng Eve ăn trộm đầu tiên và Adam ăn trộm thứ hai; Gideon gõ lách cách bình nước; Goliath bị David đẩy ra; và đứa con hoang toàng làm cú đánh bóng chày!"
Tu sĩ là những người tinh ranh nhất trên thế giới.
Ở Baltimore, vào lúc chuyển thế kỉ, một maggid lưu động, hay nhà thuyết giảng, đi tìm khắp thế giới một nhà tiên tri già với bộ râu bạc oai vệ và chảy dài, mặc áo choàng trắng như tuyết, nhà tiên tri này được mời nói chuyện ở ngôi đền Sanhedrin. Viên giáo sĩ thường xuyên của giáo đường bằng cách nào đó vẫn lo sợ về quan điểm cực chính thống của ông già này, nhưng ông ta đã tới do được giới thiệu nhiều. Nỗi sợ của giáo sĩ, té ra là cũng được biện minh. Ông maggid này hô hào giáo đoàn bằng buổi thuyết giảng nóng bỏng đáng phải ghi công cho vị thuyết giảng Baptist chính thống theo Kinh Thánh quá chừng. Khi giáo trưởng đáng kính sắp kết thúc buổi thuyết giảng của mình ông ta nói to, "Và tôi nói với các vị, Ngày phán xử cuối cùng trong tầm tay rồi, và chừng nào các vị còn chưa sống nghiêm túc theo luật được trao cho chúng ta từ bản thân Mose, sẽ có khóc lóc và gào thét và nghiến răng!"
Một bà già ngồi ngay hàng trước, hoảng sợ với cách hiểu nhanh của mình, kêu lên, "Nhưng, thưa ngài, tôi không có răng!"
"Thưa bà," nhà thuyết giảng gầm lên như sấm, "răng sẽ được cung cấp!"
Phật không phải là tu sĩ, ông ấy không phải là nhà tiên tri, ông ấy là một loại người hoàn toàn khác. Ông ấy là người đã thức tỉnh, ông ấy đã đi tới biết bản thân mình. Ông ấy không phải là hoá thân của Thượng đế - ông ấy không có tuyên bố nào như thế. Ông ấy không phải là sứ giả đặc biệt của Thượng đế; ông ấy không có bản ngã nào như thế. Ông ấy không tuyên bố rằng "Ta là con duy nhất." Tất cả những điều này có vẻ ngớ ngẩn nếu bạn nghĩ về Phật. Ông ấy rất đơn giản và vậy mà thông điệp của ông ấy lại thực tế nhất, khoa học nhất, xuyên thấu nhất.
Ông ấy nói, "Ta đã vô ý thức như các ông; bây giờ ta đã trở nên có ý thức và mọi nỗi sợ và nỗi buồn của ta đã biến mất. Một ngày nào đó ta đã giống các ông, một ngày nào đó các ông có thể giống ta; không có sự khác biệt về chất giữa chúng ta. Ta đã thức tỉnh, các ông còn ngủ; đó là khác biệt duy nhất. Ta không phải là phi thường, ta bình thường như các ông thôi. Điều duy nhất đã xảy ra cho ta là ở chỗ ta đã mở mắt ra còn các ông vẫn nhắm mắt. Mở mắt ra đi và nhìn bản thân các ông!"
Lời kinh:
Không phải sắt cầm tù ông
Không phải dây thừng không phải gỗ,
mà hoan lạc ông nhận trong vàng và đá quí, trong con và vợ.
Không phải sắt cầm tù ông... nhà tù của bạn không phải là thứ thô đó đâu, nó rất tinh vi. Nó không thấy được vậy đâu, nó rất vô hình. Nó trong suốt. Không phải là bạn vẫn còn trong nhà tù; ngược lại, nhà tù bao quanh bạn, bất kì chỗ nào bạn tới nó đều đi cùng bạn. Nó là cái gì đó trong tâm trí bạn, không phải là cái gì đó bao quanh thân thể bạn. Nó là cái gì đó trong chính cách tiếp cận của bạn tới cuộc sống.
Ông ấy nói: Không phải sắt cầm tù ông Không phải dây thừng không phải gỗ, mà hoan lạc ông nhận trong vàng và đá quí....
Bây giờ một điều rất có ý nghĩa phải được nhớ: lời kinh này đã bị diễn giải sai trong hàng thế kỉ. Hai mươi nhăm thế kỉ diễn giải sai có đó. Lần đầu tiên tôi đang nói với bạn rằng nó không ngụ ý điều các phật tử đã từng nói nó ngụ ý vậy. Họ nghĩ nó ngụ ý rằng vàng và đá quí phải bị từ bỏ; nó không ngụ ý điều đó đâu - nó rõ ràng thế - mà hoan lạc ông nhận trong vàng và đá quí.... Không phải vàng trói buộc bạn mà hoan lạc bạn nhận trong nó mới trói buộc. Nếu bạn không nhận hoan lạc trong nó thì bạn có thể sống trong cung điện và bạn vẫn tự do như bất kì ai sống trong hang động trên Himalaya. Nếu bạn nhận hoan lạc trong hang động trên Himalaya bạn không tự do như bất kì ai sống trong cung điện. Vấn đề này mang tính tâm lí.
Và một điều thêm nữa: tại sao bạn nhận hoan lạc trong cung điện, trong vàng, trong đá quí, trong kim cương? Chúng tất cả đều trang điểm cho bản ngã của bạn. Bản ngã của bạn trống rỗng trong bản thân nó, nó là phi tồn tại. Bạn phải liên tục rót các thứ vào trong nó để cho nó cứ cho bạn cảm giác là nó là cái gì đó thực chất. Nó liên tục đòi hỏi, "Cho tôi cái này, cho tôi cái kia." Nó cứ đòi hỏi. Nó tồn tại trong đòi hỏi, nó tồn tại trong ham muốn.
Cũng giống như khi bạn đi xe đạp: bạn phải đạp liên tục. Nếu bạn dừng đạp xe, có thể xe đạp còn đi được vài mét do đà quá khứ, nhưng thế rồi nó nhất định đổ. Bản ngã cũng giống như xe đạp: bạn phải liên tục đạp. Nếu bạn dừng đạp là nó đổ kềnh ra đó, nằm dài trên đất.
Cho nên nếu bạn có cung điện nó sẽ đòi hỏi cung điện lớn hơn và nó sẽ có vui mừng lớn trong cung điện này. Nó sẽ ba hoa về điều đó, nó sẽ cảm thấy dương dương tự đắc. Nếu bạn là tổng thống một nước, nó cảm thấy rất tự đắc. Nếu bạn trở nên nổi tiếng, đáng kính, nó trở nên rất tự đắc. Và cách thức của bản ngã là rất tinh vi. Nó đi vào vô ý thức của bạn, vào những tầng tối nhất của bản thể bạn. Nó có thể lấy hoan lạc trong vàng, nó có thể lấy hoan lạc trong từ bỏ vàng, nhưng đó là cùng một điều cả thôi.
 Tôi biết nhiều cái gọi là thánh nhân cứ ba hoa mãi sau ba mươi, bốn mươi năm. Bốn mươi năm trước họ đã từ bỏ thế giới và họ vẫn cứ nói rằng "Chúng tôi đã từ bỏ nhiều tiền thế, nhiều vàng thế." Họ vẫn cứ nói về điều đó mãi! Bốn mươi năm đã qua rồi, nhưng họ vẫn lấy hoan lạc đó.
Bạn có thấy vấn đề không? Bạn có thể nhận hoan lạc khi bạn có vàng, bạn có thể nhận hoan lạc khi bạn từ bỏ vàng. Thực tế, khi bạn có vàng bạn không thể hoan lạc nhiều thế như khi bạn từ bỏ nó. Tại sao? - bởi vì hàng triệu người khác cũng có vàng, điều đó chẳng có gì rất đặc biệt cả. Nhưng khi bạn từ bỏ bạn là người hiếm hoi: bản ngã của bạn trở thành phi thường hơn, linh thiêng hơn, siêu phàm.
Tôi biết một người đã là bác sĩ vi lượng đồng cân. Bây giờ, bạn biết về các bác sĩ vi lượng đồng cân đấy - họ bằng cách nào đó xoay xở sống. Rất hiếm khi tôi thấy bệnh nhân nào tới xin khám ở ông ấy. Vâng, vài người thường tới - họ thường tới để đọc báo! Thực tế, đó là cách tôi bắt đầu đi tới phòng khám của ông ấy - để đọc báo và để tán gẫu chút ít, và thế rồi chúng tôi trở thành bạn bè. Ông ấy bao giờ cũng nói về các rắc rối của ông ấy và ông ấy rất lo lắng.
Và thế rồi một hôm tôi nghe nói rằng ông ấy đã từ bỏ thế giới; ông ấy trở thành thánh nhân. Sau ba năm tôi gặp ông ấy ở Calcutta. Ông ấy được tôn thờ, và mọi người đều bảo tôi rằng ông ấy có hàng triệu ru pi mà ông ấy đã từ bỏ. Tôi nói, "Đừng có ngu - tôi biết con người này! Ông ta chỉ có ba trăm sáu mươi rupi trong ngân hàng thôi!" Bây giờ chúng đã thành hàng triệu!
Khi bạn từ bỏ bạn có thể làm tăng số tiền của mình; không ai có thể ngăn cản bạn và không ai có thể kiểm tra nó được - không việc kiểm toán nào là có thể, Bạn có thể cứ lan truyền tin đồn bạn đã từ bỏ bao nhiêu.
Khi tôi thấy ông ấy, tôi hỏi ông ấy, "Bác sĩ ơi...." Ông ta nói, "Tôi không còn là bác sĩ nữa."
Tôi nói, "Ông vẫn như thế. Tôi biết hoàn toàn rõ rằng ông đã có ba trăm sáu mươi ru pi trong bưu điện! Ông đang nói tới hàng triệu nào vậy? Ông nên nói đơn giản là ông đã từ bỏ ba trăm sáu mươi ru pi!"
Ông ta nhìn tôi và ông ta nói, "Đừng nói to thế. Ông sẽ phá huỷ toàn thể danh tiếng của tôi đấy!"
Danh tiếng phụ thuộc vào người ta đã bỏ lại bao nhiêu, cho nên khi ông ta đi từ thành phố này sang thành phố khác, số tiền ông ta từ bỏ tăng lên. Nó đã diễn ra theo cách đó. Điều này không phải là cái gì mới; điều này đã xảy ra trước đây nữa.
Ngay cả trong câu chuyện đời Phật, các phật tử đã viết rằng ông ấy đã từ bỏ nhiều xe vàng thế và nhiều voi thế và nhiều ngựa và nhiều cung điện thế. Đó là toàn điều vô nghĩa, bởi vì ông ấy không phải là con của hoàng đế rất lớn hay cái gì. Vương quốc mà ông ấy thuộc vào, Kapilvastu, là chỗ nhỏ bé tới mức nó gần như biến mất khỏi mặt đất, thậm chí không một dấu vết.... Tất cả những cung điện đó đã không còn lại tàn tích nào. Không có cung điện, và đó chỉ là cái làng nhỏ tới mức để giữ nhiều xe vàng thế ở đó và nhiều voi nhiều ngựa thế sẽ là điều không thể được. Nhưng mọi người đã viết ra câu chuyện này phải cứ làm cho nó ngày một lớn hơn.
Đã có ganh đua lớn giữa người Jainas và phật tử bởi vì Mahavira và Buddha là người đương đại. Cho nên bạn có thể nhìn vào trong kinh sách.... Người Jainas viết, "Bao nhiêu là ngựa, bao nhiêu là voi, bao nhiêu là xe," và kinh sách phật giáo cạnh đó làm tuyên bố còn lớn hơn. Thế rồi tới kinh sách Jaina khác lại đưa ra tuyên bố lớn hơn kinh sách Phật giáo - và điều này cứ diễn ra trong hàng trăm năm, mãi tới giờ cứ dường như Mahavira và Buddha đều là các hoàng đế lớn, cứ dường như họ đã chi phối toàn thể Ấn Độ.
Sự thật là ở chỗ vào thời Phật ở Ấn Độ có hai nghìn vương quốc. Hai nghìn vương quốc sao? - điều đó nghĩa là từng vương quốc không thể lớn hơn một quận được. nhiều nhất đấy, và bố của Phật không hơn người phó thu thuế hay người thu thuế... hay, nếu bạn khăng khăng, người đại diện chính quyền trung ương, nhưng không nhiều hơn thế.
Mọi người lấy hoan lạc trong vàng, nhiều tới mức khi họ từ bỏ nó, vẫn còn hoan lạc âm ỉ; người ta cứ nghĩ về nó. Bản ngã có thể đáp ứng cho bản thân nó hoặc bằng việc có nhiều tiền hoặc bằng việc từ bỏ nhiều tiền, nhưng nó bao giờ cũng cần tiền và nó bao giờ cũng cần nhiều hơn. Nhớ điều đó.
Phật nói: mà hoan lạc ông nhận trong vàng và đá quí... đó là cầm tù thực; điều đó tạo ra tù túng của bạn - không phải là vàng, không phải là đá quí. Chúng có thể làm được gì? Làm sao chúng có thể trói buộc được bạn?
Tôi đã sống trong những chiếc lều nghèo nàn, chúng không thể trói buộc bạn được; tôi đã sống trong các cung điện, chúng không thể trói buộc được bạn. Tôi đã sống như người nghèo - nghèo khó không thể trói buộc được bạn; tôi đã sống như người giầu - giầu có không thể trói buộc được bạn. Những điều đó là ở bên ngoài. Nếu bạn bắt đầu lấy hoan lạc trong chúng, sự vừa lòng nào đó, thế thì tù túng bắt đầu. Nếu bạn lấy hoan lạc... trong con và vợ. Điều đó nữa đã bị diễn giải sai: Từ bỏ vợ bạn và từ bỏ con bạn.
Không cần từ bỏ cái gì; chỉ cần hiểu.
Diễn giải của tôi về Phật là ở chỗ từ bỏ không phải là vấn đề; hiểu biết mới là vấn đề. Và nếu qua hiểu biết, cái gì đó bị vứt đi khỏi cuộc sống của bạn, nó không phải là do bạn từ bỏ; nó đơn giản đã rơi rụng đi như chiếc lá khô rời khỏi cây. Bạn không thể tuyên bố công trạng gì về nó cả.
Cứ nhìn vào mối quan hệ của bạn với vợ bạn, với con bạn, với chồng bạn, và xem sự mong manh của nó tất cả. Nó không có bản chất nào trong nó. Nó tất cả đều là thơ ca và hư cấu, nó không phải là sự kiện.
Mới vài ngày trước đây một người đàn ông tới tôi và anh ta nói, "Tôi muốn trở thành sannyasin, nhưng vợ tôi nói cô ấy sẽ tự giết cô ấy!"
Tôi nói, "Chúng ta hãy thử, cho việc thay đổi, bởi vì tôi chưa bao giờ thấy người nào.... Tôi có một trăm nghìn sannyasins trên khắp thế giới. Không vợ nào đã tự giết cô ấy cả, không chồng nào đã tự tử, mặc dầu nhiều người đã nói điều đó."
Mọi người coi những điều này là rất nghiêm trọng. Vợ bạn hay chồng bạn có thể nói, "Em không thể sống nếu thiếu anh" - và cô ấy đã sống không có bạn hoàn toàn tốt trước đây! Mới vài ngày trước cô ấy thậm chí còn không nhận biết về bạn và cô ấy đã sống hoàn toàn tốt - thực tế, cô ấy đã sống tốt hơn cô ấy bây giờ! Nhưng cô ấy nói cô ấy không thể sống thiếu bạn, và bạn tin điều đó bởi vì nó nuôi dưỡng bản ngã bạn.
Bà Goldfarb đứng khóc cạnh nấm mồ của chồng bà ấy thì một người lạ lịch sự tiến tới bà ấy.
"Thưa bà, tôi tiếc là trong hoàn cảnh không may này tôi vẫn phải nói điều này," ông ta bắt đầu một cách kính trọng, "nhưng tôi phải nó với bà tôi đã yêu bà ngay cái nhìn đầu tiên."
"Đồ lười nhác! Đồ vô công rồi nghề!" bà Goldfarb kêu lên một cách phẫn nộ, kinh hãi với sự xấc xược lạ thường này. "Cút ngay khỏi mắt tôi nếu không tôi sẽ gọi cảnh sát! Đây mà là lúc nói về yêu sao?"
"Tôi đảm bảo với bà, thưa bà, rằng tôi đã không định để lộ tình cảm của tôi vào lúc buồn rầu này," người lạ lịch sự giải thích, "nhưng tôi đơn giản bị choáng ngợp bởi cái đẹp tinh tế của bà!"
"Nghe đây," bà Goldfarb nói, "ông phải nhìn tôi khi tôi không khóc chứ!"
Trong một khoảnh khắc mọi thứ thay đổi. Trong thế giới này, mọi mối quan hệ của bạn chỉ được làm từ chất liệu như thơ ca được làm ra; chúng thậm chí không phải là văn xuôi, chúng là hư cấu. Mọi người đang sống trong hư cấu, và họ cứ vẽ, cứ vẽ lại hư cấu của mình; họ cứ giữ hư cấu sống.
Bà Saperstein vừa mới đưa con tới trường thì điện thoại reo.
"Có phải chồng bà tên là Philip Saperstein không?" một giọng sầu thảm hỏi tới ở đầu bên kia đường dây.
"Cái gì nữa?" bà này đáp lại.
"Đây là văn phòng điều tra tai nạn bất thường. Tôi tiếc là phải nói với bà điều này, nhưng chúng tôi có người chết vì giao thông ở đây. Chúng tôi thấy số điện thoại của bà trong túi ông ấy. Xin bà xuống đây tới nhà xác và nhận diện cái xác được không?"
Bà Saperstein tới trong vòng nửa giờ và một người phụ tá hộ tống bà ấy đi tới một hình người được bao phủ trong tấm vải trắng. Người phụ tá nâng tấm vải lên và để lộ khuôn mặt nạn nhân. "Người này có phải là chồng bà không?" ông ta hỏi.
Bà Saperstein dướn mắt mở to. "A-a-a! Ông làm sao - vâng, đó là chồng tôi - lấy được vải che trắng thế?"
Đừng tin vào hư cấu. Vợ bạn, chồng bạn, con bạn, cha mẹ bạn, tất cả đều là những hư cấu đẹp. Và tôi không nói từ bỏ họ; tôi đang nói, đơn giản thôi, hiểu tính hư cấu của tất cả họ. Sống ở bất kì đâu bạn đang ở, nhưng đừng bị đồng nhất với những vai trò tưởng tượng này. Diễn vai, nhưng không bị đồng nhất với vai diễn của mình.
Đó đích xác là điều Phật ngụ ý:
Cái mềm trói buộc,
vậy mà chúng kìm ông xuống.
Ông có thể chộp chúng được không?
Chúng không phải là những cái cùm rất mạnh, chúng rất mềm, nhưng ông có thể chộp chúng được không? Bạn không thể chộp chúng được nếu bạn không có ý thức; và nếu bạn có ý thức bạn không cần chộp chúng - chúng không có đó. Bạn đơn giản thấy ra vấn đề là trong thế giới này chúng ta tới một mình, chúng ta sống một mình và chúng ta đi một mình. Vâng, chúng ta chơi nhiều trò chơi - trò chơi chồng hay vợ, bạn hay thù.
Chúng ta chơi nhiều trò chơi bởi vì chúng ta phải lấp đầy thời gian bằng cái gì đó, hay nói cách khác chúng ta phải "giết thời gian," như họ nói, bằng việc chơi bài, chơi cờ.... Và đây là tất cả những cái tên cho cùng một điều, không cái gì nghiêm chỉnh hơn. Bạn đã thấy việc chơi bài đấy - con vua và con hậu - và khi bạn chơi bài chúng trở thành rất thật. Bạn có thể đánh nhau, mọi người thậm chí giết nhau; chỉ trong chơi bài mới mới trở thành nghiêm chỉnh thế!
Chúng ta trở nên bị đồng nhất nhiều thế bởi vì chúng ta không ý thức chút nào. Chính tâm thức mới giúp cho bạn trở nên không bị đồng nhất.
Thế thì bạn có thể cứ chơi mọi loại trò chơi - tôi không chống lại trò chơi. Chơi chúng một cách thật nghệ thuật như bạn có thể làm được. Để cuộc sống của bạn là vui đùa! Tôi không muốn bạn nghiêm chỉnh, tôi không muốn bạn có mặt dài. Đủ chuyện đó rồi! Người tôn giáo đã khổ nhiều; không cần. Bạn có thể cười và bạn có thể tận hưởng, nhưng nhớ một điều: rằng tất cả chỉ là trò chơi. Cái chết sẽ tới và tấm màn hạ xuống và trò chơi biến mất và vở kịch kết thúc.
Có những người có thể chộp, người buông xuôi thế giới,
vì ham muốn, và đi theo đạo.
Ai là những người có thể chộp được những đồng nhất này? Họ là những người dũng cảm, thiền nhân: những người cố gắng đem nhận biết tới cuộc sống của họ, tới hành động của họ, tới ý nghĩ của họ, tới tình cảm của họ.
Nỗ lực bền bỉ của Phật là một: làm cho bạn nhận biết trong mọi thứ bạn đang làm. Nếu bạn đang bước, bước với nhận biết. Nếu bạn đang ăn, ăn với nhận biết. Đừng đơn giản tọng vào mình theo cách máy móc. Giải tự động hoá cho bản thân mình đi. Đừng là máy, hãy là người.
Và thế thì bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng ham muốn bắt đầu lánh xa khỏi bạn và đạo mở ra.
Moe và Ike, chín mươi và chín hai tuổi tương ứng, đã là những người goá vợ trong nhiều, nhiều năm rồi. Cả hai đều mạnh khoẻ và đẹp lão mặc cho năm tháng của họ. Khí hậu Florida phù hợp với họ, và nhiều bà goá đáng yêu vẫn theo họ mặc cho tuổi của họ.
Một hôm Moe nói với Ike, "Ike, tôi thực sự đơn độc. Điều đó đã kéo dài nhiều năm rồi vì tôi mất Becky và tôi chưa bao giờ đi bước nữa. Nhưng tôi nghĩ bây giờ đến lúc rồi và tôi sẵn lòng đi bước nữa - ngay cả vào độ tuổi tôi đây."
"Điều đó có vẻ là một ý tưởng hay đấy," Moe nói. "Thực tế, có thể tôi cũng nên lấy vợ mới."
Chẳng bao lâu sau đó, Moe và Ike cả hai đều lấy các bà đáng yêu - tám mươi chín và chín mươi tương ứng - và họ cả hai đều đi tuần trăng mật.
Vài ngày sau đó, Moe và Ike gặp nhau bên lối đi lót ván dọc biển.
"Này," Moe hỏi, "tuần trăng mật của ông thế nào?" "Nói thực với ông, Moe này, tôi không thể qua được đêm tân hôn."
"Này," Moe nói, "nói thực với ông, tôi thậm chí còn không nghĩ về nó!"
Nhưng ngay cả ở độ tuổi chín mươi, mọi người vẫn muốn tiếp tục trò chơi trẻ con, cũ kĩ. Trẻ con có thể được tha thứ. Chúng cần chơi, chúng cần bị đồng nhất, chúng cần đi lạc lối, chúng cần phạm lỗi lầm, sai lầm, bởi vì đó là cách duy nhất để học và chín chắn. Nhưng ngay cả trong tuổi già, mọi người hành xử cứ dường như họ còn chưa trưởng thành chút nào.
Nhớ lấy, bạn trưởng thành theo cùng tỉ lệ bạn trở nên nhận biết. Bạn trưởng thành chỉ theo tỉ lệ bạn trở nên không bị đồng nhất với mọi trò chơi mà cuộc sống làm thành sẵn có cho bạn.
Ôi nô lệ của ham muốn, nổi trên dòng suối.
Nhện nhỏ, bám vào mạng nhện của ông.
hay khác đi, từ bỏ buồn khổ của ông vì đạo.
Phật gọi những người chỉ là nô lệ cho ham muốn của họ... họ không là gì ngoài mẩu gỗ trôi giạt, nạn nhân của các lực mù quáng. Họ không biết định mệnh của mình, họ không biết nghĩa gì. Họ chỉ là ngẫu nhiên; họ không kinh nghiệm ý nghĩa bản chất trong cuộc sống. Từ trò chơi này họ đi sang trò chơi khác. Cả đời họ là một chuỗi việc giữ cho mình bận rộn bằng cách nào đó để cho họ không trở nên nhận biết về sự kiện là họ đã làm phí hoài cơ hội lớn lao của việc trưởng thành, của việc về nhà, của việc trở thành con người có ý thức, của việc trở thành cái họ được ngụ ý là. Họ cứ bỏ lỡ.
Nhện nhỏ, Phật nói, bám vào mạng nhện của ông.
Đó là sáng tạo riêng của bạn. Thế giới mà bạn sống trong đó là sáng tạo riêng của bạn, cũng giống như nhện tạo ra mạng nhện của nó từ bản thân nó và thế rồi bị mắc vào trong mạng nhện và không thể rời bỏ nó được. Bạn phóng chiếu thế giới của mình từ tâm trí của mình, bạn phóng chiếu cả nghìn ham muốn. Đó là cách bạn tạo ra mạng nhện và thế rồi bạn bị mắc vào trong nó. Ai đó bị mắc vào trong ham muốn về tiền, ai đó bị mắc vào trong ham muốn quyền lực, ai đó bị mắc vào trong ham muốn từ bỏ, ai đó bị mắc vào trong ham muốn thiên đường - toàn ham muốn!
Con người thực của hiểu biết không có ham muốn. Người đó sống trong khoảnh khắc và bất kì cái gì đang có sẵn, người đó tận hưởng nó tới cái toàn bộ của nó. Người đó vắt kiệt từng khoảnh khắc, người đó uống từng khoảnh khắc! Người đó ăn bất kì cái gì sẵn có. Người đó ngủ, nhưng người đó là toàn bộ trong bất kì điều gì người đó làm.
Một Thiền sư, Rinzai, được mọi người hỏi, "Thiền của thầy là gì?"
Ông ấy nói, "Khi ta thấy đói ta ăn và khi ta buồn ngủ ta ngủ, có vậy thôi. Ta không có thiền nào khác."
Ông ấy là bông hoa thực của Phật! Nhưng bạn sẽ bỏ lỡ vấn đề nếu bạn không được kể thêm rằng khi ông ấy nói, "Khi ta thấy đói ta ăn," ông ấy ăn với nhận biết toàn bộ.
Thực tế, người sống trong nhận biết cũng ngủ trong nhận biết.
Krishna, trong Gita, nói: Người tìm kiếm thực là thức tỉnh ngay cả khi người khác ngủ say. Khi trời là đêm cho người khác nó vẫn là ngày cho ông ấy. Cái gì đó sâu bên trong ông ấy vẫn còn thường xuyên tỉnh táo.
Cái là đêm cho mọi người khác không phải là đêm linh hồn bao giờ cũng tỉnh táo. Nó chưa bao giờ mệt mỏi cho nên nó không cần ngủ chút nào. Nó là bản thân nhận biết; nó được làm từ nhận biết.
Nhện nhỏ, bám vào mạng nhện của ông.
Hilda và Herman trải qua một buổi tối yên tĩnh ở nhà. Phải nói là, Herman đang bị mê mải đọc sách một cách yên tĩnh, nhưng Hilda đang trong tâm trạng muốn nói.
"Anh yêu," cô ấy bắt đầu, "nếu em phải chết trước anh, anh có hứa với em điều gì đó quan trọng không?"
"Có chứ," Herman lẩm bẩm, vẫn không rời mắt khỏi trang sách đang đọc.
"Hứa với em anh bao giờ cũng giữ mồ em xanh tươi."
"Ấy à, đừng có nghĩ không lành mạnh thế," anh ta đáp. "Phỏng có ích gì mà nói về chết? Với anh, em trông khá mạnh khoẻ."
Anh ta chúi mũi vào sách, lại bị cuốn hút hoàn toàn, hi vọng anh ta sẽ không bị sao lãng nữa.
"Này, vâng, em cảm thấy mạnh khoẻ lắm, anh yêu," Hilda lại ngắt sau một phút im lặng ân huệ, "nhưng em muốn chắc nơi nghỉ cuối cùng của em sẽ không bị quên lãng. Anh có thể muốn đi bước nữa hay cái gì đó, và quên hết mọi thứ về em."
"Này, Hilda, anh sẽ nhớ em mãi mãi. Thôi đi chợ quanh cái ông nhà táng đi và để anh đọc sách!"
Lần này anh ta được thưởng đến vài phút an bình và yên tĩnh, rồi chị vợ lại khơi mào mạch đối thoại đích xác ở chỗ nó đã bị ngắt.
"Em ghét bị chồng quên. Em nghĩ vì em quá nhạy cảm - bởi vì em có nhiều tình cảm thế. Cưng ơi, anh có khẳng định rằng anh sẽ giữ nấm mồ của em xanh mãi không?"
"Có chứ, anh khẳng định," anh ta càu nhàu, mắt vẫn dính vào trang sách.
"Rồi, đó là an ủi lớn. Duy nhất, em thích anh nói điều đó với nhiều tình cảm hơn.... Anh yêu, anh có tuyệt đối, khẳng định chắc chắn anh sẽ giữ mồ em...."
"Hilda," người đàn ông khó chịu quát lên, quẳng cuốn sách sang bên, "anh sẽ giữ cái mồ chết tiệt đó của em xanh mãi nếu anh phải tự mình vẽ nó!"
Đầu tiên chúng ta tạo ra những quan hệ này - vợ và chồng... và thế rồi họ bắt đầu khao khát con cái, ham muốn lớn về con cái nảy sinh... và nó cứ tiếp diễn mãi. Thế rồi họ muốn con họ xây dựng gia đình; thế rồi họ muốn con họ có con. Đây là quá trình không chấm dứt. Họ cứ nghĩ mãi rằng điều này sẽ đáp ứng cho họ; nếu điều này mà không đáp ứng cho họ, thì cái gì đó khác... Cả đời bạn bị phí hoài.
Và tôi không nói đừng yêu hay đừng có vợ hay đừng có chồng hay đừng có con. Điều tôi đang nói là ở vì chỉ điều đó mới đi cùng bạn. Chỉ nhận biết của bạn mới đi qua ngọn lửa của cái chết; mọi thứ khác sẽ bị bỏ lại sau.
Và một điều rất quan trọng, Phật nói: hay khác đi, từ bỏ buồn khổ của ông vì đạo.
Mọi người thấy rất khó bỏ buồn khổ của họ. Trên bề mặt điều đó bằng cách nào đó có vẻ không đúng. Sao mọi người lại phải ngần ngại bỏ buồn khổ của họ vì đạo?
Thầy thực không bao giờ đòi hỏi bạn cái gì ngoại trừ việc hi sinh buồn khổ của bạn. Ông ấy muốn bạn trao nỗi buồn khổ của bạn cho ông ấy, không cái gì khác. Nhưng bỏ buồn khổ của bạn là điều khó nhất bởi vì bạn đã sống với chúng lâu thế, bạn là bạn bè thế với chúng, và sống với nỗi buồn quen thuộc cho cảm giác ấm cúng thế, ấm áp thế - bạn cũ, và bỏ họ.... Và bỗng nhiên tất cả các bức tường của bạn biến mất và bạn sẽ ở dưới trời lồng lộng bởi vì các bức tường của bạn không chứa gì ngoài nỗi buồn khổ của bạn. Nhà tù của bạn sẽ biến mất! - và bạn đã sống trong tù lâu thế, trong nhiều kiếp tới mức nó đã trở thành nhà bạn.
Tôi biết nhiều tù nhân. Bất kì khi nào họ được thả ra từ nhà tù, trong vòng ba hay bốn tháng họ quay lại; họ sẽ làm cái gì đó và họ sẽ bị đưa trở lại nhà tù. Tôi thường tới thăm nhà tù và tôi hỏi vài người, những người cứ quay đi quay lại nhà tù, "Vấn đề là gì?"
Họ nói, "Khi chúng tôi ra khỏi nhà tù điều đó có chỉ là người lạ và tôi bắt đầu cảm thấy nhớ nhà, cho nên tôi phải làm cái gì đó và quay lại."
Một khi một người bị vào tù rất hiếm khi người đó sẽ không quay lại lần nữa. Người đó sẽ quay lại bởi vì nhà tù cho an ninh nào đó, an toàn nào đó. Bạn không cần bận tâm, bạn không cần lo nghĩ về ngày mai. Vào đúng giờ thức ăn sẽ được cung cấp, vào đúng giờ bạn sẽ đi ngủ, vào đúng giờ bạn sẽ được đánh thức dậy buổi sáng. Cuộc sống có kỉ luật thế - như tu viện!
Thực tế, tu viện và nhà tù không khác gì mấy, chỉ cái tên là khác. Tu viện có chút vất vả hơn, có vậy thôi! Nhà tù có chút ít nhân đạo hơn. Và nhà tù hiện đại, đặc biệt ở các nước đã phát triển, còn tốt hơn nhiều so với tu viện. Ở trong nhà tù còn tốt hơn ở trong tu viện.
Tôi đã nghe nói về một tu viện của dòng Luyện tâm. Một người vào và người đó được cha trưởng tu viện nói, "Nhớ lấy, qui tắc của chúng ta là ở chỗ ông có thể nói chỉ một lần trong sáu năm." Cho nên trong sáu năm đó người đó phải im lặng, sôi lên bên trong.
Sau sáu năm cha trưởng tu viện gọi người đó lên và hỏi, "Ông có gì cần nói không?"
Người đó nói, "Có. Giường cứng quá. Tôi cần cái giường khác."
Cha trưởng tu viện nói, "Được, điều đó sẽ được làm. Ông có thể đi."
Trong sáu năm người đó lại sôi sục lên. Sáu năm sau cha trưởng tu viện lại gọi người đó lên và nói, "Ông có gì cần nói không?"
Người đó nói, "Có" - người đó thực sự giận dữ. Người đó nói, "Những người đem giường mới tới đã làm vỡ kính cửa sổ và trời quá lạnh."
Cha trưởng tu viện nói, "Được, nó sẽ được sửa lại. Ông về đi."
Trong sáu năm người đó lại sôi lên bên trong. Người đó được gọi tới và cha trưởng tu viện nói, "Ông có gì muốn nói không?"
Người đó vừa định nói thì cha trưởng tu viện nói, "Đợi đã! Trong mười tám năm ông đã chẳng làm gì ngoài phàn nàn và phàn nàn. Ông cút khỏi tu viện đi! Ông không được ngụ ý thành sư. Ông muốn sống cuộc sống dễ dàng và ẻo lả."
Trại giam còn tốt hơn nhiều, và trại giam hiện đại thực sự đáng sống, có cả tivi mầu và mọi thứ!
Con người đã cải tiến liên tục hàng thế kỉ. Con người đã cải tiến nhà tù rất tốt. Con người đã trở thành rất phức tạp, văn hoá, văn minh. Và điều này không là gì ngoài việc sơn vẽ tường nhà tù, làm cho chúng đẹp lên. Và bây giờ bỗng nhiên vị phật tới và nói với bạn, "Đi ra chỗ thoáng đi. Bỏ khổ, bỏ buồn đi." Bạn không thể bỏ khổ và buồn của của mình dễ dàng thế.
Đó là lí do tại sao mọi người rời bỏ thế giới này, từ bỏ thế giới, tạo ra khổ mới của riêng mình. Nếu không có ai khác tạo ra khổ cho họ - nếu bạn không có vợ để tạo ra nó, nếu bạn không có chồng để tạo ra nó, nếu không có ai hỗ trợ cho bạn trong khổ của bạn - bạn sẽ tự mình tạo ra nó. Mọi người đang ngủ trên giường gai... bây giờ, không vợ nào chuẩn bị nó, bản thân họ làm việc vất vả trên nó! Mọi người nhịn ăn, gần như tự giết mình.
Bây giờ, không ai làm điều đó cho họ, đó là ý tưởng riêng của họ.
Các nhà khổ hạnh là tự huỷ diệt; họ là những người tự tử, tự bạo, đồi bại, nhưng họ được tôn thờ. Họ được tôn thờ bởi vì họ tạo ra khổ riêng của họ! Bạn tôn thờ mọi người là thánh nhân, là mahatmas, nếu họ tạo ra khổ riêng của họ. Họ đáng phải bị đưa vào trong nhà thương điên, họ phải được điều trị! Họ cần chăm sóc thuốc men. Họ không phải là mahatmas, họ đơn giản là người tự bạo. Họ đã từ bỏ thế giới, nhưng họ không thể từ bỏ khổ được nên họ bắt đầu tạo ra khổ riêng của mình. Và khi một người tạo ra khổ cho bản thân mình, tất cả các bạn đều kính trọng người đó. Bạn đã từng được bảo rằng đây là cái gì đó lớn lao; người đó đang hi sinh cuộc đời mình cho Thượng đế.
Thượng đế không phải là kẻ tàn bạo. Ngài không thích khổ của bạn và buồn của bạn. Đừng ngu, đừng xuẩn! Nhưng lí do là ở chỗ mọi người không thể bỏ được khổ của mình. Họ có thể từ bỏ vàng và cung điện và tiền và quyền, họ có thể từ bỏ mọi thứ, nhưng khi tới việc từ bỏ khổ, điều này trở thành điều khó khăn nhất họ gặp phải, bởi vì khổ đã từng ở cùng bạn lâu tới mức bạn không biết kiểu sống khác. Kiểu duy nhất mà bạn đã trở nên quen thuộc là buồn khổ.
Đó là lí do tại sao các thánh nhân của bạn lại xấu thế, buồn thế, nghiêm chỉnh thế. Và họ càng nghiêm chỉnh họ càng buồn, họ càng được tôn thờ, cho nên bản ngã của họ lại được nuôi dưỡng. Khi bản ngã của họ được nuôi dưỡng họ tự hành hạ mình thêm; bạn lại tôn thờ họ thêm, thế thì họ lại tự hành hạ mình thêm nữa. Điều này trở thành cái vòng luẩn quẩn.
Bỏ hôm qua, và ngày mai, và hôm nay.
Đi ngang qua bến bờ xa hơn, bên ngoài sống và chết.
Nếu bạn thực sự muốn đạt tới điều tối thượng, tới bất tử, tới vô thời gian, bạn sẽ phải bỏ hôm qua. Cái đã qua rồi là qua rồi mãi mãi. Đừng nhìn lại và đừng nhìn lên trước. Cái còn chưa có thì vẫn chưa có. Đừng tìm ngày mai.
Và mọi người ngu thế: họ không chỉ tìm kiếm ngày mai, họ đang tìm cuộc sống sau cái chết; họ thậm chí còn nghĩ tới hoan lạc cõi trời. Họ hân hoan trong ý tưởng rằng sẽ có khả năng hoan lạc vĩnh hằng về cùng những điều ngu xuẩn mà họ đã từ bỏ ở đây. Logic kì lạ! Ở đây họ nói, "Đừng uống rượu, đó là phi tôn giáo." Nhưng trong bahisht, trong thiên đường của người Mô ha mét giáo, có những dòng sông, dòng suối, thác rượu! Ở đó bạn có thể uống thoả thích, bạn có thể bơi trong rượu, bạn có thể chìm sâu trong rượu - và bạn không phải trả gì cho điều đó cả!
Ở đây họ nói, "Đàn bà là cánh cửa xuống địa ngục"; đặc biệt kinh sách Hindu nói, "Đàn bà là cánh cửa xuống địa ngục." Và điều gì xảy ra trong cõi trời? Đàn bà đẹp, liên tục nhảy múa! Làm sao những người đàn bà này vào đó được? Và họ là cánh cửa xuống địa ngục.... Thượng đế của bạn phải đã đạt tới địa ngục từ lâu trước đây rồi! Ở đây, từ bỏ đàn bà và thế rồi bạn sẽ được thưởng bằng đàn bà đẹp trong cõi trời. Và bạn có biết không? - những đàn bà đó chưa bao giờ già đi cả. Trong thiên đường Hindu, chẳng cái gì được nói về đàn ông, liệu họ có già đi hay không, nhưng điều tuyệt đối chắc chắn là đàn bà bị kẹt lại tuổi mười sáu, họ không thể lớn vượt ra ngoài điều đó. Đó là ý tưởng Hindu: mười sáu là cực đỉnh của cái đẹp, theo ý tưởng Hindu. Và những ý tưởng khác biệt....
Trong thiên đường của người Mô ha mét giáo, ngay cả coi trai đẹp cũng sẵn có, không chỉ con gái, bởi vì đồng dục là rất phổ biến vào những ngày Koran được viết ra. Và tất nhiên, thánh nhân sẽ không được thoả mãn chỉ với con gái, họ sẽ cần cả con trai đẹp nữa.
Louis Jourdan, ngôi sao điện ảnh Pháp, ở Mĩ tìm kiếm một kịch bản văn học hay cho bộ phim sắp tới của mình. Ông ấy tình cờ gặp Budd Schulberg, tác giả và nhà soạn kịch Mĩ.
"Có cuốn sách mới ra tên là Precocious Paula," Schulberg chủ định gợi ý. "Nó sẽ cho ông một đồng vai diễn chính."
"Tôi chưa bao rờ nghe nói dề cuốn dách của ông dấy," Jourdan nói.
"Nó là cái gì đó tựa như tiểu thuyết của Nabokov, Lolita," Schulberg giải thích.
"Thế Lolita này là cái rì?"
"Thế này, nói thẳng nhé, đó là về người đàn ông trung tuần đi yêu một cô mười hai tuổi."
Người Pháp nhìn trân trân ông ta. "Tôi hông hiểu," ông ta nói. "Mười hai tuổi gì?"
Đàn ông, đàn bà, con vật - cái gì? Người Pháp này có ý tưởng riêng của mình. Tôi không biết cái gì xảy ra trong thiên đường Pháp - nó phải đáng tới thăm! Không đáng sống, nhưng đáng tới thăm. Bạn sẽ thấy tất cả mọi loại suy đồi dục.
Hai giáo sư đang nói, một người Pháp, một người Mĩ, về có bao nhiêu tư thế làm tình.
Người Pháp nói, "Một trăm mười hai," và người Mĩ nói, "Một trăm mười ba."
Người Pháp nói, "Ông làm tôi ngạc nhiên, bởi vì người Pháp chúng tôi là chuyên gia. Ông nói cho tôi tư thế một trăm mười ba đó là gì."
Và người Mĩ nói, "Thứ nhất, đàn bà nằm ngửa và đàn ông nằm lên trên cô ấy."
Người Pháp nói, "Đợi đã! Vâng, có một trăm mười ba tư thế. Tôi chưa bao giờ nghĩ tới điều đó!"
Phải đáng tới thăm thiên đường Pháp này! Và còn nói gì tới địa ngục Pháp nữa? Cái đó thậm chí có thể còn đáng sống ở đó hơn! Bạn sẽ thấy nhóm đông người, và mỗi bước đều có một ngạc nhiên.
Và đây là những người đó... trên khắp thế giới họ đều đã nghĩ về cùng niềm vui theo cách lớn hơn ở trong thiên đường - cùng niềm vui họ đang kết án ở đây! Đây không phải là từ bỏ; đây chỉ là kìm nén.
Từ bỏ thực tới từ hiểu biết. Nó không phải là từ bỏ chút nào. Từ bỏ thực không phải là từ bỏ chút nào, nó là hiểu biết thuần khiết. Bạn thấy ra vấn đề, và tất cả những thứ ngu xuẩn và tất cả những cái giả biến mất, và bạn bắt đầu sống cuộc sống thông thường của mình với nhiều nhận biết hơn.
Bỏ hôm qua, bỏ ngày mai, bỏ hôm nay. Phật nói: Bỏ thời gian - quá khứ, tương lai, hiện tại, bỏ mọi thứ. Quên thời gian đi; đó là cách đi vào trong không gian vô thời gian bên trong bản thân bạn. Đó là thiền. Đi ngang qua bến bờ xa hơn, bên ngoài sống và chết.
Ý nghĩ có gây rắc rối cho ông không?
Nếu chúng gây rắc rối cho bạn, thế thì cái gì đó lập tức được cần tới. Nếu ý nghĩ của bạn gây rắc rối cho bạn điều đó nghĩa là bạn vẫn còn chưa có khả năng hoá giải đồng nhất bản thân mình với tâm trí mình.
Đam mê có quấy nhiễu ông không?
Nếu nó quấy nhiễu bạn, điều đó nghĩa là bạn vẫn bị đồng nhất với thân thể. Bạn nghĩ, "Mình là thân thể," thế thì đam mê quấy nhiễu bạn. Nếu bạn nghĩ, "Mình là tâm trí," thế thì ý nghĩ quấy nhiễu bạn.
Cẩn thận về những khao khát này...
Từ 'khao khát' là việc dịch của từ Phật giáo tanha. Tanha có nhiều chiều hơn là khao khát; khao khát là việc dịch theo nghĩa đen. Tanha nghĩa là ham muốn, ham muốn thêm nữa, ham muốn không dừng, ham muốn vô tận. Bạn càng được nhiều, bạn càng muốn nhiều. Nó giống như đổ dầu vào lửa. Điều đó được gọi là tanha, and tanha là căn nguyên của khổ của bạn.
Cẩn thận về những khao khát này sợ rằng ước muốn của ông trở thành ham muốn.... Cẩn thận đấy, bởi vì ham muốn không nảy sinh bất thình lình. Đầu tiên chúng chỉ là ao ước, thế rồi dần dần chúng kết tụ lại và trở thành ham muốn. Và một khi chúng trở thành ham muốn thì còn khó trở nên nhận biết hơn; bạn có thể trở nên nhận biết dễ dàng hơn khi chúng chỉ là ao ước. Phá huỷ hạt mầm thay vì đợi chúng lớn thành cả cái cây và thế rồi mới chặt nó; đó sẽ là việc không cần thiết.
...Sợ rằng ước muốn của ông trở thành ham muốn và ham muốn làm mù ông.
Ham muốn là sự cầm tù của chúng ta. Người không muốn gì, người tuyệt đối mãn nguyện như mình vậy, là tự do khỏi mọi tù túng. Người đó đã đạt tới tự do tối thượng, niết bàn - và đó là mục đích của cuộc sống. Và chỉ bằng việc đạt tới tự do đó mà bạn sẽ biết ý nghĩa của hiện hữu, bài ca của hiện hữu, lễ hội của hiện hữu. Cuộc sống của bạn sẽ trở thành phúc lạc liên tục, và không chỉ việc bạn sẽ phúc lạc, bạn sẽ có khả năng ban phúc lành cho người khác nữa. Toàn thể sự tồn tại sẽ được phúc lạc bởi bạn, bởi chính sự hiện diện của bạn.
Đủ cho hôm nay.
Xem tiếp Chương 4 - Quay về Mục lục

Ads Belove Post